Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo có nghĩa vụ cư trú, trình diện và chịu sự giám sát của chính quyền địa phương. Tuy nhiên trên thực tế, không ít trường hợp tự ý rời khỏi nơi cư trú hoặc vắng mặt không xin phép, gây khó khăn cho công tác quản lý, giáo dục và thi hành án. Vậy: Xử lý như thế nào đối với những người được hưởng án treo vắng mặt tại nơi cư trú?
Mục lục bài viết
1. Giải quyết đối với người được hưởng án treo vắng mặt tại nơi cư trú:
1.1. Trường hợp vắng mặt tại nơi cư trú đúng quy định pháp luật:
Giải quyết việc vắng mặt tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người được hưởng án treo trong trường hợp này được quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự 2019.
(1) Điều kiện để được giải quyết yêu cầu vắng mặt: Người được hưởng án treo có thể vắng mặt tại nơi cư trú nếu có lý do chính đáng và phải xin phép theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Luật thi hành án hình sự 2019, phải thực hiện khai báo tạm vắng theo quy định của pháp luật về cư trú.
(2) Thời gian vắng mặt tại nơi cư trú: Thời gian vắng mặt mỗi lần không quá 60 ngày và tổng số thời gian vắng mặt tại nơi cư trú không được vượt quá một phần ba thời gian thử thách, trừ trường hợp bị bệnh phải điều trị tại cơ sở y tế theo chỉ định của bác sỹ và phải có xác nhận điều trị của Cơ sở y tế đó.
(3) Trong thời gian vắng mặt tại nơi cư trú, cơ quan có thẩm quyền quản lý người hưởng án treo bằng cách:
- Người được hưởng án treo khi vắng mặt tại nơi cư trú phải có đơn xin phép và được sự đồng ý của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục; trường hợp không đồng ý thì Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do;
- Người được hưởng án treo khi đến nơi cư trú mới phải trình báo với Công an cấp xã nơi mình đến tạm trú, lưu trú;
- Hết thời hạn tạm trú, lưu trú phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an cấp xã nơi tạm trú, lưu trú.
- Trường hợp người được hưởng án treo vi phạm pháp luật, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó đến tạm trú, lưu trú phải thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục kèm theo tài liệu có liên quan.
(4) Việc giải quyết trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc thực hiện theo quy định tại Điều 68 của Luật thi hành án hình sự:
- Bảo đảm các yêu cầu theo quy định của pháp luật về cư trú;
- Được sự đồng ý của cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện trong trường hợp thay đổi nơi cư trú trong phạm vi đơn vị hành chính cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh trong trường hợp thay đổi nơi cư trú ngoài phạm vi đơn vị hành chính cấp huyện, cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an trong trường hợp thay đổi nơi cư trú ngoài phạm vi đơn vị hành chính cấp tỉnh.
1.2. Trường hợp vắng mặt tại nơi cư trú trái quy định pháp luật:
Khoản 1 Điều 10 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP (sửa đổi bởi khoản 5 Điều 1 Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP) quy định: Người được hưởng án treo có thể bị Tòa án buộc chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo nếu đang trong thời gian thử thách mà cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại điều 87 của Luật Thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên.
Đối chiếu với quy định tại khoản 4 Điều 87 Luật Thi hành án hình sự 2019, một trong những nghĩa vụ của người được hưởng án treo gồm:
- Chịu sự giám sát, giáo dục của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu nơi cư trú, nơi làm việc;
- Chấp hành quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự 2019.
Đồng thời khoản 2 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự 2019 quy định: Người được hưởng án treo khi vắng mặt tại nơi cư trú phải có đơn xin phép và được sự đồng ý của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục; trường hợp không đồng ý thì Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Người được hưởng án treo khi đến nơi cư trú mới phải trình báo với Công an cấp xã nơi mình đến tạm trú, lưu trú; hết thời hạn tạm trú, lưu trú phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an cấp xã nơi tạm trú, lưu trú. Trường hợp người được hưởng án treo vi phạm pháp luật, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó đến tạm trú, lưu trú phải thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục kèm theo tài liệu có liên quan.
Vì thế, người được hưởng án treo khi vắng mặt tại nơi cư trú PHẢI được sự đồng ý của Ủy ban nhân dân cấp xã. Tất cả những trường hợp người được hưởng án treo cố tình rời khỏi nơi cư trú khi không có sự đồng ý của Ủy ban nhân dân cấp xã đều được xác nhận là hành vi vi phạm nghĩa vụ của người được hưởng án treo.
Người được hưởng án treo có hành vi cố ý vi phạm nghĩa vụ từ 02 lần trở lên có thể bị Tòa án buộc chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Cách thức xác định hành vi vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên khi người hưởng án treo tự ý vắng mặt tại nơi cư trú:
Căn cứ khoản 2 Điều 10 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP (sửa đổi, bổ sung tại khoản 5 Điều 1 Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao), hành vi vi phạm nghĩa vụ từ hai lần trở lên trong trường hợp người được hưởng án treo bỏ đi khỏi nơi cư trú mà không xin phép được xác định theo trình tự cụ thể như sau:
Thứ nhất, trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo tự ý rời khỏi nơi cư trú mà không được cơ quan có thẩm quyền cho phép thì cơ quan giám sát, giáo dục sẽ lập biên bản vi phạm nghĩa vụ, nhắc nhở lần thứ nhất và triệu tập người đó trở về để tiếp tục chấp hành án. Trường hợp người vi phạm không có mặt theo giấy triệu tập, cơ quan có thẩm quyền sẽ tổ chức kiểm điểm vắng mặt và lập biên bản kiểm điểm vắng mặt. Hành vi này được xác định là vi phạm nghĩa vụ lần thứ nhất.
Thứ hai, sau lần nhắc nhở đầu tiên, nếu người được hưởng án treo vẫn tiếp tục vắng mặt, không chấp hành việc triệu tập thì cơ quan có thẩm quyền sẽ lập biên bản nhắc nhở lần thứ hai. Nếu sau đó người này vẫn không có mặt theo yêu cầu, cơ quan có thẩm quyền lập biên bản xác nhận việc vắng mặt của họ. Và trường hợp này được xác định là vi phạm nghĩa vụ lần thứ hai.
Như vậy, căn cứ các quy định nêu trên, người được hưởng án treo tự ý bỏ khỏi nơi cư trú 02 lần mà không xin phép và không chấp hành yêu cầu triệu tập hợp lệ của cơ quan giám sát, giáo dục thì được coi là đã vi phạm nghĩa vụ từ hai lần trở lên. Đây là căn cứ quan trọng để Tòa án xem xét quyết định chuyển hình phạt án treo thành hình phạt tù theo quy định của pháp luật thi hành án hình sự.
3. Một số vướng mắc thường gặp khi người hưởng án treo vắng mặt tại nơi cư trú:
Trên thực tế, việc xử lý người được hưởng án treo vắng mặt tại nơi cư trú là một nội dung nhạy cảm đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan thi hành án hình sự, Ủy ban nhân dân cấp xã, Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai ở nhiều địa phương, vẫn tồn tại không ít khó khăn và vướng mắc cả về quy trình nghiệp vụ lẫn nhận thức pháp luật. Cụ thể như sau:
3.1. Thực tế tại địa phương trong việc giám sát người được hưởng án treo:
Ở nhiều địa phương, việc giám sát, giáo dục người được hưởng án treo vẫn còn mang tính hình thức. Một số cán bộ tư pháp hộ tịch, công an xã hoặc người trực tiếp giám sát chưa nắm rõ quy trình xử lý khi người chấp hành án vắng mặt, dẫn đến việc lập biên bản chậm trễ hoặc thiếu nội dung theo quy định tại Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP.
Bên cạnh đó, lực lượng công an cấp xã thường kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ khiến công tác kiểm tra, nhắc nhở, lập biên bản hoặc tổ chức kiểm điểm người được hưởng án treo không được thực hiện định kỳ, làm ảnh hưởng đến tính răn đe và hiệu quả quản lý.
3.2. Khó khăn khi xác minh tình trạng vắng mặt hoặc bỏ đi khỏi nơi cư trú:
Một vướng mắc phổ biến là việc xác minh nguyên nhân người được hưởng án treo vắng mặt. Trong nhiều trường hợp, người chấp hành án rời khỏi nơi cư trú nhưng không để lại địa chỉ, khiến cơ quan giám sát không thể tiếp cận hoặc gửi giấy triệu tập.
Một số trường hợp khác, người này vẫn có mặt nhưng thay đổi nơi làm việc hoặc tạm trú, song không thực hiện nghĩa vụ thông báo bằng văn bản và gây khó khăn cho Ủy ban nhân dân cấp xã/phường khi xác định hành vi có vi phạm nghĩa vụ hay không.
Thậm chí, có địa phương còn chưa phân biệt rõ giữa “vắng mặt có lý do chính đáng” và “bỏ đi không xin phép” dẫn đến tình trạng xử lý không thống nhất hoặc không đủ căn cứ đề nghị Tòa án chuyển hình phạt.
3.3. Vướng mắc khi người hưởng án treo di chuyển sang địa bàn khác hoặc ra nước ngoài:
Theo Luật Thi hành án hình sự, người hưởng án treo chỉ được thay đổi nơi cư trú khi có sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều trường hợp tự ý di chuyển sang tỉnh/thành phố khác để làm ăn, sinh sống mà không thực hiện thủ tục xin phép hoặc bàn giao giám sát.
Việc chuyển giao hồ sơ thi hành án giữa 02 địa phương thường mất nhiều thời gian, thậm chí không được thực hiện đầy đủ, khiến công tác giám sát bị gián đoạn.
Đặc biệt với những người xuất cảnh trái phép, ra nước ngoài lao động hoặc kết hôn, cơ quan giám sát gần như không có công cụ kiểm tra, giám sát hiệu quả. Từ đó dẫn đến khó khăn trong việc xác định tình trạng chấp hành án và xử lý vi phạm theo quy định.
THAM KHẢO THÊM:

Tư vấn pháp luật qua Zalo


