Trong tố tụng hình sự, không phải mọi tội phạm đều được khởi tố ngay khi có dấu hiệu phạm tội. Một số trường hợp pháp luật quy định chỉ được khởi tố khi bị hại có yêu cầu nhằm bảo đảm quyền tự quyết và lợi ích của họ trong những vụ án có tính chất ít nghiêm trọng. Vậy: Những trường hợp nào chỉ khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại?
Mục lục bài viết
- 1 1. Các trường hợp chỉ khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại:
- 1.1 1.1. Chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác:
- 1.2 1.2. Chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh:
- 1.3 1.3. Chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội:
- 1.4 1.4. Trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại về tội hiếp dâm:
- 1.5 1.5. Trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại về tội cưỡng dâm:
- 1.6 1.6. Trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại về tội làm nhục người khác:
- 1.7 1.7. Trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại về tội vu khống:
- 1.8 1.8. Trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại về tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác:
- 1.9 1.9. Chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại về tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính:
- 2 2. Khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại thì ai có nghĩa vụ phải trả án phí?
- 3 3. Vụ án hình sự sẽ không được khởi tố trong những trường hợp nào?
1. Các trường hợp chỉ khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại:
Theo Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (sửa đổi bởi khoản 3 Điều 1 Luật Sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự 2021) quy định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại như sau:
- Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ luật Hình sự 2015 khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
- Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
- Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
Vậy, các trường hợp chỉ được khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại bao gồm:
1.1. Chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác:
Theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 quy định người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%; hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
- Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;
- Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;
- Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
- Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;
- Có tổ chức;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
- Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
- Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;
- Có tính chất côn đồ;
- Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
Trong trường hợp bị hại chịu tổn hại về sức khỏe nhưng hai bên đã thỏa thuận bồi thường và bị hại không có nhu cầu khởi kiện, cơ quan có thẩm quyền sẽ không tiến hành khởi tố vụ án. Trường hợp này chính là ví dụ điển hình và phổ biến nhất của việc khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại, thể hiện nguyên tắc tôn trọng quyền tự quyết của người bị hại trong việc yêu cầu xử lý hình sự hay giải quyết dân sự bằng thỏa thuận bồi thường.
1.2. Chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh:
Theo khoản 1 Điều 135 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh như sau:
- Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó;
- Hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
1.3. Chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội:
Theo khoản 1 Điều 136 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ tội phạm như sau:
- Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
- Hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
1.4. Trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại về tội hiếp dâm:
Theo khoản 1 Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về Tội hiếp dâm như sau:
- Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân;
- Hình phạt: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
Như vậy khi người bị hiếp dâm (theo khoản 1) có yêu cầu khởi tố thì cơ quan sẽ tiến hành khởi tố vụ án.
1.5. Trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại về tội cưỡng dâm:
Theo khoản 1 Điều 143 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về Tội cưỡng dâm như sau:
- Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác;
- Hình phạt: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
1.6. Trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại về tội làm nhục người khác:
Theo khoản 1 Điều 155 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về Tội làm nhục người khác như sau:
- Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác;
- Hình phạt: Phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
1.7. Trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại về tội vu khống:
Theo khoản 1 Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015 quy định người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
- Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;
- Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
1.8. Trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại về tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác:
Theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức của người khác như sau:
- Người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
- Hình phạt: Phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm.
1.9. Chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại về tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính:
Theo khoản 1 Điều 139 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính như sau:
- Người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
- Hình phạt: Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
2. Khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại thì ai có nghĩa vụ phải trả án phí?
Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định trách nhiệm chi trả chi phí tố tụng, lệ phí. Theo đó:
- Chi phí quy định tại khoản 4 Điều 135 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 do các cơ quan, người đã trưng cầu, yêu cầu, chỉ định chi trả; trường hợp Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước cử người bào chữa thì do Trung tâm này chi trả;
- Án phí do người bị kết án hoặc Nhà nước chịu theo quy định của pháp luật. Người bị kết án phải trả án phí theo quyết định của Tòa án. Mức án phí và căn cứ áp dụng được ghi rõ trong bản án, quyết định của Tòa án;
- Trường hợp vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại, nếu Tòa án tuyên bố bị cáo không có tội hoặc vụ án bị đình chỉ khi có căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì bị hại phải trả án phí;
- Đối với các hoạt động tố tụng do người tham gia tố tụng yêu cầu thì việc chi trả lệ phí, chi phí theo quy định của pháp luật.
Như vậy: Đối với trường hợp vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại phải trả án phí trong trường hợp:
- Tòa án tuyên bố bị cáo không có tội;
- Vụ án bị đình chỉ khi người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu.
3. Vụ án hình sự sẽ không được khởi tố trong những trường hợp nào?
Việc khởi tố vụ án hình sự, dù đối với tội phạm nói chung hay các tội xâm phạm quyền công dân nói riêng, giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người và bảo đảm công lý trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Để thực hiện tốt mục tiêu này, Bộ luật Tố tụng hình sự đã đặt ra những quy định chặt chẽ về căn cứ, cơ sở, trường hợp không được khởi tố cũng như thẩm quyền và trình tự thủ tục ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Các quy định này nhằm bảo đảm hoạt động tố tụng được tiến hành đúng pháp luật; đồng thời tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Theo Điều 18 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chủ động khởi tố vụ án trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Sau khi khởi tố, cơ quan này có trách nhiệm áp dụng các biện pháp tố tụng cần thiết để xác định tội phạm, làm rõ người phạm tội hoặc pháp nhân phạm tội và xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Đây là cơ sở quan trọng bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện, xử lý kịp thời và đúng pháp luật; đồng thời góp phần bảo vệ quyền công dân trong quá trình tố tụng hình sự.
Và theo Điều 157 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (sửa đổi bởi khoản 4 Điều 1 Luật Sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự 2021) có quy định vụ án hình sự không được khởi tố khi có một trong các căn cứ sau đây:
- Không có sự việc phạm tội;
- Hành vi không cấu thành tội phạm;
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
- Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
- Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
- Tội phạm đã được đại xá;
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác;
- Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ luật Hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.
THAM KHẢO THÊM:

Tư vấn pháp luật qua Zalo


