Án treo là chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự, thể hiện sự khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội có nhân thân tốt và khả năng tự cải tạo. Tuy nhiên không phải mọi trường hợp bị kết án phạt tù đều được xem xét cho hưởng án treo. Dưới đây là những trường hợp người bị phạt tù không được hưởng án treo theo quy định của pháp luật hiện hành.
Mục lục bài viết
- 1 1. Những trường hợp nào người bị phạt tù không được hưởng án treo?
- 1.1 1.1. Người phạm tội là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tính chất chuyên nghiệp, lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng:
- 1.2 1.2. Người thực hiện hành vi phạm tội bỏ trốn và đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng truy nã hoặc yêu cầu truy nã, trừ trường hợp đã ra đầu thú trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử:
- 1.3 1.3. Người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách; người đang được hưởng án treo bị xét xử về một tội phạm khác thực hiện trước khi được hưởng án treo:
- 1.4 1.4. Người phạm tội bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội:
- 1.5 1.5. Người phạm tội 02 lần trở lên:
- 1.6 1.6. Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm:
- 2 2. Thời gian thử thách trong án treo được xác định như thế nào?
- 3 3. Án treo có để lại án tích hay không?
1. Những trường hợp nào người bị phạt tù không được hưởng án treo?
Căn cứ quy định tại Điều 3 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP (sửa đổi, bổ sung theo Điều 1 Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP có hiệu lực kể từ ngày 10/05/2022) quy định 06 (sáu) trường hợp không được hưởng án treo như sau:
1.1. Người phạm tội là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tính chất chuyên nghiệp, lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng:
Đây là nhóm đối tượng được coi là có tính chất nguy hiểm cao cho xã hội, thể hiện sự chủ động, chủ mưu, ngoan cố hoặc thủ đoạn khi thực hiện hành vi phạm tội.
- Người chủ mưu: Là người đề xướng, khởi xướng hoặc đưa ra chủ trương, phương hướng thực hiện tội phạm, trực tiếp hoặc gián tiếp điều khiển hoạt động của đồng phạm;
- Người cầm đầu: Là người thành lập, tổ chức nhóm tội phạm, soạn thảo kế hoạch, phân công nhiệm vụ, chỉ đạo và đôn đốc việc phạm tội;
- Người chỉ huy: Là người trực tiếp điều khiển nhóm tội phạm, đặc biệt trong các vụ án có tính chất vũ trang;
- Các hành vi như ngoan cố chống đối, dùng thủ đoạn xảo quyệt, phạm tội có tính chất côn đồ hoặc chuyên nghiệp, lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội đều là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015;
- Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp: Là trường hợp người phạm tội nhiều lần, coi việc phạm tội là nguồn sống hoặc thu nhập chính, thể hiện sự nguy hiểm cao, đáng bị xử lý nghiêm khắc;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội: Xảy ra khi người có chức vụ thực hiện hành vi phạm tội liên quan trực tiếp đến quyền hạn, công vụ được giao, lợi dụng vị trí của mình để trục lợi;
- Phạm tội có tính chất côn đồ: Là hành vi hung hãn, manh động, coi thường pháp luật, coi thường tính mạng, sức khỏe người khác – ví dụ như giết người hoặc gây thương tích chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt.
Những người phạm tội thuộc các nhóm nêu trên không được hưởng án treo bởi hành vi của họ thể hiện ý thức phạm tội cao, nhân thân xấu, không đủ điều kiện để được cải tạo ngoài xã hội.
1.2. Người thực hiện hành vi phạm tội bỏ trốn và đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng truy nã hoặc yêu cầu truy nã, trừ trường hợp đã ra đầu thú trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử:
Người phạm tội bỏ trốn để trốn tránh trách nhiệm hình sự thể hiện thái độ coi thường pháp luật, thiếu ăn năn hối cải.
Án treo là biện pháp khoan hồng dành cho người thật sự hối lỗi và tự giác sửa sai, do đó người bỏ trốn và bị truy nã không thể được hưởng án treo.
Và chỉ khi người đó ra đầu thú, hợp tác điều tra và thể hiện rõ ý thức hối cải thì Tòa án mới xem xét giảm nhẹ hình phạt chứ không được áp dụng án treo.
1.3. Người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách; người đang được hưởng án treo bị xét xử về một tội phạm khác thực hiện trước khi được hưởng án treo:
Thời gian thử thách của án treo là giai đoạn để Nhà nước đánh giá ý thức cải tạo và mức độ phục thiện của người bị kết án. Nếu trong thời gian này người được hưởng án treo tiếp tục phạm tội mới, điều đó chứng tỏ biện pháp án treo không đủ tác dụng giáo dục, răn đe, và người đó phải chấp hành hình phạt tù.
Tương tự, người đang được hưởng án treo nhưng bị xét xử về một tội khác đã thực hiện trước đó, dù là phạm trước khi được hưởng án treo, cũng không được áp dụng án treo lần nữa. Điều này phản ánh nguyên tắc xử lý nghiêm minh của pháp luật, vấn đề khoan hồng chỉ dành cho người phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt và thực sự hối cải.
1.4. Người phạm tội bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội:
Theo nguyên tắc của pháp luật hình sự, người phạm tội nhiều lần hoặc phạm nhiều tội khác nhau thể hiện ý thức coi thường pháp luật, tái diễn hành vi phạm tội, do đó không được hưởng án treo. Tuy nhiên, người phạm tội bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội sẽ không được hưởng án treo và loại trừ một trong các trường hợp sau đây:
- Người phạm tội là người dưới 18 tuổi;
- Người phạm tội bị xét xử và kết án về 02 tội đều là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là người giúp sức trong vụ án đồng phạm với vai trò không đáng kể
1.5. Người phạm tội 02 lần trở lên:
Người phạm tội 02 lần trở lên sẽ không được hưởng án treo ngoại trừ một trong các trường hợp sau:
- Người phạm tội là người dưới 18 tuổi;
- Các lần phạm tội đều là tội phạm ít nghiêm trọng;Các lần phạm tội, người phạm tội là người giúp sức trong vụ án đồng phạm với vai trò không đáng kể;
- Các lần phạm tội do người phạm tội tự thú.
1.6. Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm:
Căn cứ Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 2015, tái phạm và tái phạm nguy hiểm được hiểu như sau:
(1) Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
(2) Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
- Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
- Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
Người tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm không đủ điều kiện nhân thân để được cải tạo ngoài xã hội vì hành vi tái phạm thể hiện sự coi thường pháp luật và nguy cơ gây nguy hiểm cao cho cộng đồng, do đó không được hưởng án treo.
2. Thời gian thử thách trong án treo được xác định như thế nào?
Thời gian thử thách trong án treo được quy định tại khoản 1 Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
- Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.
- Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.
- Tòa án có thể quyết định áp dụng đối với người được hưởng án treo hình phạt bổ sung nếu trong điều luật áp dụng có quy định hình phạt này.
- Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.
- Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.
Như vậy: Khi quyết định cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo, Tòa án đồng thời phải ấn định thời gian thử thách theo đúng quy định của pháp luật. Chỉ khi thời gian thử thách được tuyên đúng và phù hợp với luật định thì chế định án treo mới bảo đảm được ý nghĩa nhân đạo, giáo dục và răn đe.
3. Án treo có để lại án tích hay không?
Án tích là hậu quả pháp lý trực tiếp của việc một cá nhân bị kết án về hành vi phạm tội, đồng thời là một hình thức thể hiện trách nhiệm hình sự của người phạm tội trước pháp luật. Án tích tồn tại kể từ thời điểm bản án kết tội có hiệu lực pháp luật cho đến khi người bị kết án được xóa án tích theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Mặc dù người được hưởng án treo được miễn chấp hành hình phạt tù giam và có cơ hội sống, lao động, cải tạo giữa cộng đồng nhưng về mặt pháp lý, họ vẫn bị coi là người có án tích. Bởi lẽ án treo không làm mất đi bản chất của việc bị kết án mà chỉ là sự miễn trừ có điều kiện đối với việc chấp hành hình phạt tù.
Điều này được thể hiện rõ tại khoản 2 Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 2015: Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
- 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo;
- 02 năm trong trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;
- 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;
- 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.
Như vậy, người được hưởng án treo vẫn CÓ án tích cho đến khi đủ điều kiện được đương nhiên xóa án tích theo quy định nêu trên. Cụ thể, nếu người đó chấp hành xong thời gian thử thách án treo, đã hoàn thành hình phạt bổ sung và các nghĩa vụ khác trong bản án, đồng thời không phạm tội mới trong thời hạn 01 năm kể từ khi kết thúc thời gian thử thách thì sẽ được đương nhiên xóa án tích.
Sau khi được xóa án tích, người đó được coi như chưa từng bị kết án (Điều 69 Bộ luật Hình sự 2015) và được phục hồi đầy đủ các quyền nhân thân, quyền công dân và uy tín pháp lý như trước khi phạm tội. Đây chính là ý nghĩa nhân đạo sâu sắc của chế định án treo và xóa án tích trong pháp luật hình sự Việt Nam.
THAM KHẢO THÊM:

Tư vấn pháp luật qua Zalo


