Tội vi phạm quy định về sử dụng người lao động dưới 16 tuổi là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm nhằm bảo vệ trẻ em khỏi nguy cơ bị bóc lột sức lao động, ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất và tinh thần. Bài viết này sẽ phân tích các quy định pháp luật hiện hành trong việc xử lý loại tội phạm này.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát về tội vi phạm quy định sử dụng người lao động dưới 16 tuổi:
- 2 2. Cấu thành Tội vi phạm quy định về sử dụng người lao động dưới 16 tuổi:
- 3 3. Hình phạt đối với tội vi phạm quy định sử dụng người lao động dưới 16 tuổi:
- 4 4. Các định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 296 Bộ luật Hình sự:
- 5 5. So sánh với tội cưỡng bức lao động:
1. Khái quát về tội vi phạm quy định sử dụng người lao động dưới 16 tuổi:
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc bảo vệ người lao động chưa thành niên:
Người lao động dưới 16 tuổi được pháp luật Việt Nam xác định là nhóm lao động đặc thù, cần có cơ chế bảo vệ đặc biệt bởi độ tuổi này chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tâm sinh lý và trí tuệ. Việc sử dụng trẻ em làm các công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc trực tiếp với các chất độc hại có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe, tinh thần, thậm chí ảnh hưởng đến cả quá trình phát triển lâu dài của trẻ.
Khái niệm tội vi phạm quy định về sử dụng người lao động dưới 16 tuổi có thể được hiểu là hành vi của cá nhân, tổ chức sử dụng trẻ em dưới 16 tuổi lao động trong những công việc bị pháp luật nghiêm cấm, thuộc danh mục nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, khi có đủ dấu hiệu cấu thành theo quy định của Bộ luật Hình sự. Đặc trưng của tội phạm này không chỉ là hành vi sử dụng lao động trái phép mà còn gắn liền với hậu quả gây tổn hại sức khỏe, tính mạng hoặc sự phát triển bình thường của trẻ em.
Ý nghĩa của việc quy định tội danh này trong Bộ luật Hình sự là nhằm bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của trẻ em, đồng thời khẳng định quan điểm của Nhà nước về việc tuyệt đối cấm hành vi bóc lột sức lao động trẻ em. Đây cũng là bước cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 (Điều 35 quy định: “Nghiêm cấm sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu.”), đồng thời thể hiện sự tương thích với các điều ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam là thành viên, như Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989.
1.2. Căn cứ pháp lý điều chỉnh tội phạm này trong Bộ luật Hình sự và pháp luật liên quan:
Căn cứ trực tiếp điều chỉnh hành vi này là Điều 296 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2025:
“Điều 296. Tội vi phạm quy định về sử dụng người lao động dưới 16 tuổi
1. Người nào sử dụng người lao động dưới 16 tuổi làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với chất độc hại theo danh mục mà Nhà nước quy định thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Làm chết người;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Làm chết 02 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 122% trở lên.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành Tội vi phạm quy định về sử dụng người lao động dưới 16 tuổi:
2.1. Khách thể bị xâm hại:
Khách thể trực tiếp của tội phạm này là quan hệ xã hội liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của trẻ em trong lĩnh vực lao động. Nhà nước Việt Nam thừa nhận quyền được lao động nhưng đồng thời cũng đặt ra những giới hạn nhất định để bảo vệ người lao động chưa thành niên.
Điều 147 Bộ luật Lao động năm 2019 nhấn mạnh nguyên tắc: cấm tuyệt đối việc sử dụng người chưa đủ 18 tuổi làm các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, hoặc tiếp xúc môi trường làm việc ảnh hưởng tiêu cực đến nhân cách, sức khỏe. Danh mục cụ thể được quy định tại Thông tư số 09/2020/TT-BLĐTBXH.
Như vậy, khách thể của tội phạm này là sự an toàn về sức khỏe, tính mạng, sự phát triển bình thường cả về thể chất lẫn tinh thần của người lao động dưới 16 tuổi. Đồng thời, nó còn xâm phạm đến trật tự quản lý lao động của Nhà nước, yếu tố đặc biệt quan trọng để bảo vệ trẻ em khỏi sự bóc lột sức lao động.
2.2. Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội phạm được xác định là bất kỳ cá nhân nào từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự. Bộ luật Hình sự không yêu cầu chủ thể phải có đặc điểm nghề nghiệp, chức vụ hay quyền hạn nhất định. Điều này có nghĩa là bất cứ ai, từ người sử dụng lao động trực tiếp, chủ cơ sở sản xuất – kinh doanh đến cá nhân thuê mướn lao động trái phép, đều có thể trở thành chủ thể của tội phạm nếu có hành vi vi phạm.
Đồng thời, cần lưu ý rằng trong thực tiễn, phần lớn các hành vi vi phạm thường gắn liền với người sử dụng lao động hoặc người quản lý, điều hành cơ sở sản xuất, dịch vụ. Nếu hành vi được thực hiện bởi pháp nhân thương mại, thì theo quy định tại Điều 75 Bộ luật Hình sự năm 2015, pháp nhân đó cũng có thể phải chịu trách nhiệm hình sự nếu hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân, vì lợi ích của pháp nhân và có sự chỉ đạo, chấp thuận của người có thẩm quyền.
2.3. Mặt khách quan của tội phạm:
Mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành vi sử dụng người lao động dưới 16 tuổi vào các công việc bị cấm. Điều 296 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định cụ thể: hành vi này phải rơi vào một trong các trường hợp:
- Điểm a khoản 1: Đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc đã từng bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Đây là dấu hiệu cho thấy mức độ tái phạm, coi thường pháp luật, vì vậy hành vi đã vượt qua ngưỡng xử lý hành chính để chuyển sang xử lý hình sự;
- Điểm b khoản 1: Gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% đối với một người;
- Điểm c khoản 1: Gây thương tích cho 02 người trở lên với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
Hành vi này có thể tiếp tục được định khung tăng nặng tại khoản 2 và khoản 3 Điều 296 trong các trường hợp: phạm tội nhiều lần, gây thương tích từ 61% trở lên, làm chết người hoặc nhiều người. Đây là dấu hiệu hậu quả, yếu tố bắt buộc để xác định tội phạm. Đặc điểm quan trọng của tội danh này là hậu quả phải ở mức nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng (tổn hại sức khỏe nặng, chết người, chết nhiều người) thì mới cấu thành tội phạm.
Ngoài ra, mặt khách quan còn có thể bao gồm hình thức lỗi tái phạm (người vi phạm đã từng bị xử phạt hoặc kết án). Điều này phản ánh chính sách hình sự phân hóa rõ ràng: nếu là hành vi lần đầu, chưa gây hậu quả, thì chỉ bị xử lý hành chính; khi tái phạm hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, thì mới bị xử lý hình sự.
2.4. Mặt chủ quan của tội phạm:
Người phạm tội thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Họ nhận thức rõ đối tượng mà mình sử dụng là người chưa đủ 16 tuổi, biết rõ công việc đó là công việc nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại thuộc danh mục cấm, nhưng vẫn cố tình sử dụng.
Theo phân tích từ Điều 10 Bộ luật Hình sự năm 2015, lỗi cố ý có thể tồn tại dưới hai hình thức:
- Cố ý trực tiếp: Người phạm tội mong muốn hậu quả xảy ra, chẳng hạn thuê lao động dưới 16 tuổi vào công việc khai thác than hoặc làm việc tại xưởng hóa chất độc hại, bất chấp nguy hiểm cho trẻ;
- Cố ý gián tiếp: Người phạm tội tuy không mong muốn hậu quả xảy ra nhưng có ý thức bỏ mặc, chấp nhận để hậu quả xảy ra, ví dụ như biết việc giao việc nặng nhọc cho lao động 15 tuổi có thể gây tổn hại sức khỏe nhưng vẫn làm vì mục đích lợi nhuận.
Mục đích của hành vi thường là tận dụng sức lao động rẻ, thiếu hiểu biết pháp luật của trẻ em và gia đình các em nhằm giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, mục đích này không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm, mà chỉ giúp làm rõ động cơ, thái độ của người phạm tội để xác định mức độ nguy hiểm và cân nhắc hình phạt.
3. Hình phạt đối với tội vi phạm quy định sử dụng người lao động dưới 16 tuổi:
3.1. Hình phạt chính:
Điều 296 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) thiết lập ba khung hình phạt chính, phân hóa theo mức độ nghiêm trọng của hành vi và hậu quả:
- Khung cơ bản, quy định tại khoản 1 Điều 296: người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm, hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Khung tăng nặng thứ nhất, quy định tại khoản 2 Điều 296: Người phạm tội bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
- Khung tăng nặng cao nhất, quy định tại khoản 3 Điều 296: Người phạm tội bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.
Qua ba khung hình phạt trên có thể thấy, chính sách hình sự của Nhà nước không chỉ chú trọng đến hành vi (sử dụng lao động dưới 16 tuổi trái phép) mà còn cân nhắc hậu quả thực tế để định mức hình phạt, bảo đảm sự công bằng, tương xứng giữa tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và chế tài áp dụng.
3.2. Hình phạt bổ sung (nếu có):
Ngoài hình phạt chính, khoản 4 Điều 296 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về các hình phạt bổ sung như sau:
- Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
- Cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Như vậy, hình phạt bổ sung không mang tính bắt buộc trong mọi trường hợp, mà Tòa án sẽ căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, nhân thân người phạm tội, mục đích phạm tội cũng như khả năng tái phạm để quyết định áp dụng. Đây chính là cơ chế linh hoạt nhằm cá thể hóa trách nhiệm hình sự, đảm bảo tính công bằng trong xét xử.
4. Các định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 296 Bộ luật Hình sự:
4.1. Các tình tiết định khung tăng nặng theo khoản 2 Điều 296:
Khoản 2 Điều 296 quy định: người nào sử dụng người lao động dưới 16 tuổi vào các công việc nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại, nếu thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. Đây là khung hình phạt tăng nặng thứ nhất, áp dụng khi hành vi phạm tội đã vượt qua mức cơ bản, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng hơn hoặc thể hiện mức độ nguy hiểm cao hơn. Các tình tiết được quy định cụ thể như sau:
- Phạm tội 02 lần trở lên (điểm a khoản 2 Điều 296): Trường hợp này phản ánh hành vi tái phạm nhiều lần, thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Người phạm tội đã từng vi phạm nhưng không dừng lại, tiếp tục thực hiện hành vi với mức độ lặp lại. Đây là tình tiết nguy hiểm, cho thấy nguy cơ tái phạm cao, vì vậy mức hình phạt từ 03 đến 07 năm tù là cần thiết để răn đe;
- Làm chết người (điểm b khoản 2 Điều 296): Hậu quả chết người là dấu hiệu đặc biệt nghiêm trọng, vượt xa mức gây thương tích ở khoản 1. Việc trẻ em dưới 16 tuổi bị sử dụng trong công việc nguy hiểm dẫn đến tử vong là hậu quả nặng nề nhất, xâm hại trực tiếp đến quyền sống – quyền cơ bản nhất của con người được Hiến pháp bảo hộ. Đây là căn cứ pháp lý để nâng mức hình phạt, nhằm đảm bảo tính công bằng và răn đe;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người với tỷ lệ tổn thương từ 61% trở lên (điểm c khoản 2 Điều 296): Đây là trường hợp hậu quả đối với một cá nhân là rất nghiêm trọng. Mức tổn hại sức khỏe này phản ánh khả năng nạn nhân bị mất sức lao động dài hạn, ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất và tinh thần;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương từ 61% đến 121% (điểm d khoản 2 Điều 296): Tình tiết này nhấn mạnh hậu quả tác động lên nhiều nạn nhân. Khi nhiều trẻ em cùng bị tổn hại sức khỏe với mức tổng hợp nặng, tính nguy hiểm của hành vi tăng lên và trách nhiệm hình sự buộc phải ở mức cao hơn so với khung cơ bản.
Như vậy, khoản 2 Điều 296 thể hiện chính sách hình sự phân hóa rõ rệt: khi hành vi không chỉ gây thương tích nặng hoặc tử vong mà còn mang tính chất tái phạm hoặc tác động lên nhiều người, thì hình phạt phải tăng từ 03 đến 07 năm tù để bảo đảm tính nghiêm minh.
4.2. Các tình tiết định khung tăng nặng theo khoản 3 Điều 296:
Khoản 3 Điều 296 tiếp tục xác định các tình tiết định khung đặc biệt nghiêm trọng, khi hành vi vi phạm dẫn đến hậu quả cao nhất, do đó người phạm tội sẽ bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. Đây là mức hình phạt cao nhất đối với tội danh này. Các tình tiết cụ thể như sau:
- Làm chết 02 người trở lên (điểm a khoản 3 Điều 296): Đây là tình tiết định khung phản ánh hậu quả ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng. Hành vi sử dụng lao động dưới 16 tuổi trong môi trường độc hại, nguy hiểm mà dẫn đến cái chết của nhiều trẻ em là sự vi phạm đặc biệt nghiêm trọng đến quyền con người. Việc nâng hình phạt tối đa lên đến 12 năm tù cho thấy thái độ cứng rắn của pháp luật trong việc bảo vệ trẻ em;
- Gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 122% trở lên (điểm b khoản 3 Điều 296): Tình tiết này đề cập đến trường hợp nhiều nạn nhân cùng bị thương tích nặng, với tổng tỷ lệ vượt quá ngưỡng 122%. Điều này thể hiện mức độ tác động cực kỳ nghiêm trọng, làm ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe và sự phát triển của nhiều trẻ em.
Với khoản 3 Điều 296, nhà làm luật đã đưa ra khung hình phạt từ 05 đến 12 năm tù, tương ứng với mức độ đặc biệt nguy hiểm của hành vi và hậu quả. Đây là sự khẳng định quan điểm bảo vệ trẻ em ở mức cao nhất, coi hành vi xâm hại này tương đương với những tội phạm nghiêm trọng khác trong Bộ luật Hình sự.
Qua phân tích, có thể thấy các tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 2 và khoản 3 Điều 296 đều xoay quanh hai yếu tố cơ bản: tính chất hành vi (tái phạm, phạm tội nhiều lần) và mức độ, hậu quả (tỷ lệ thương tích, chết người, số lượng nạn nhân). Đây là những tiêu chí then chốt để pháp luật hình sự xác định mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và từ đó quyết định hình phạt tương xứng.
5. So sánh với tội cưỡng bức lao động:
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, tội vi phạm quy định về sử dụng người lao động dưới 16 tuổi (Điều 296) và tội cưỡng bức lao động (Điều 297) là hai tội danh có thể gây nhầm lẫn, bởi cả hai đều liên quan đến việc sử dụng lao động trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền con người và trật tự quản lý lao động của Nhà nước. Tuy nhiên, khi phân tích kỹ cấu thành tội phạm, ta thấy có những điểm khác biệt cơ bản như sau:
Tiêu chí so sánh | Tội vi phạm quy định về sử dụng người lao động dưới 16 tuổi (Điều 296) | Tội cưỡng bức lao động (Điều 297) |
Khách thể bị xâm hại | Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động dưới 16 tuổi, nhóm lao động đặc thù cần được pháp luật bảo vệ theo Hiến pháp và Bộ luật Lao động; đồng thời bảo vệ sự phát triển lành mạnh về thể chất, tinh thần của trẻ em và trật tự quản lý lao động. | Bảo vệ quyền tự do lao động và tự do ý chí của công dân trong quan hệ lao động. Hành vi xâm hại quyền lựa chọn việc làm, cưỡng ép người khác lao động bằng vũ lực, đe dọa hoặc thủ đoạn khác. |
Mặt khách quan của tội phạm | Hành vi khách quan là sử dụng người dưới 16 tuổi vào công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc tiếp xúc chất độc hại theo danh mục do Nhà nước quy định. Không đòi hỏi có yếu tố cưỡng ép; chỉ cần có hành vi tuyển dụng hoặc sử dụng trái pháp luật là đủ cấu thành. | Hành vi khách quan là dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác để ép buộc người khác lao động trái ý muốn. Cấu thành tội phạm chỉ hình thành khi có hành vi cưỡng ép thực tế. |
Mặt chủ quan của tội phạm | Lỗi cố ý trực tiếp hoặc gián tiếp; người phạm tội biết rõ người lao động là dưới 16 tuổi và công việc thuộc loại cấm nhưng vẫn sử dụng, thường nhằm mục đích vụ lợi (khai thác sức lao động giá rẻ, giảm chi phí sản xuất). | Lỗi cố ý trực tiếp; người phạm tội nhận thức rõ hành vi cưỡng bức nhưng vẫn thực hiện, với mục đích ép buộc người khác lao động trái ý muốn. Có thể vì lợi ích kinh tế hoặc động cơ khác (ép buộc trong phạm tội, trừng phạt, trả thù). |
Chủ thể của tội phạm | Người từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự. Thường là chủ cơ sở, người quản lý, người sử dụng lao động. Pháp nhân thương mại có thể là chủ thể nếu hành vi được thực hiện nhân danh và vì lợi ích của pháp nhân (theo Điều 75 Bộ luật Hình sự). | Người từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự. Thường là cá nhân hoặc tổ chức có quyền lực, địa vị, hoặc khả năng chi phối người khác trong quan hệ lao động. |
Hình phạt | Có 03 khung hình phạt chính: – Khoản 1: Cải tạo không giam giữ, phạt tù đến 03 năm. – Khoản 2: Tù 03 – 07 năm. – Khoản 3: Tù 07 – 12 năm. Có thể phạt tiền từ 10 – 50 triệu đồng và cấm hành nghề, cấm đảm nhiệm chức vụ từ 01 – 05 năm. Khung hình phạt tăng nặng khi có tái phạm, thương tích nặng, chết người hoặc nhiều người chết. | Có 03 khung hình phạt chính: – Khoản 1: Tù đến 03 năm. – Khoản 2: Tù 03 – 07 năm (đối với hành vi cưỡng bức người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai, người già yếu, khuyết tật nặng hoặc đặc biệt nặng). – Khoản 3: Tù 07 – 12 năm khi gây hậu quả nghiêm trọng. Có thể phạt tiền từ 30 – 100 triệu đồng, cấm hành nghề hoặc đảm nhiệm chức vụ. |
Đối tượng bị xâm hại | Chỉ áp dụng với người lao động dưới 16 tuổi, là nhóm yếu thế cần bảo vệ đặc biệt. | Áp dụng với mọi công dân, không giới hạn độ tuổi, miễn là có hành vi cưỡng ép người khác lao động. |
Tính chất hành vi | Vi phạm quy định quản lý lao động trẻ em, không cần có hành vi cưỡng ép. Hành vi chủ yếu là tuyển dụng, thuê mướn, sử dụng trái phép. | Hành vi cưỡng bức, đe dọa, uy hiếp tinh thần hoặc dùng bạo lực nhằm buộc người khác phải lao động trái ý muốn. |
Điểm giao thoa và phân biệt | Cả hai đều nhằm bảo vệ quyền con người, quyền lao động và sức khỏe người lao động. Tuy nhiên, Điều 296 bảo vệ trẻ em dưới 16 tuổi khỏi bị sử dụng trong công việc bị cấm. | Điều 297 bảo vệ quyền tự do ý chí trong lao động của mọi cá nhân, đặc biệt nhấn mạnh hành vi cưỡng bức. Khi cưỡng bức áp dụng với người dưới 16 tuổi, hành vi được xem là tình tiết tăng nặng (khoản 2 Điều 297). |
Định hướng áp dụng pháp luật | Cơ quan tiến hành tố tụng cần xác định rõ độ tuổi của người lao động và tính chất công việc để làm căn cứ định tội. Hành vi không cần cưỡng ép nhưng có yếu tố sử dụng trái phép trẻ em. | Khi xem xét Điều 297, cần xác định có hành vi cưỡng ép thực tế, bằng vũ lực hoặc thủ đoạn uy hiếp. Nếu chỉ có yếu tố sử dụng lao động trẻ em mà không cưỡng ép, áp dụng Điều 296. |
THAM KHẢO THÊM: