Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội được quy định tại Điều 368 Bộ luật Hình sự năm 2015. Đây là hành vi cố ý của người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự truy cứu, khởi tố hoặc kết án người mà mình biết rõ là vô tội. Quy định tội danh này nhằm bảo vệ công lý, quyền con người và sự liêm chính trong hoạt động tư pháp, đồng thời ngăn ngừa tình trạng lạm quyền, gây oan sai trong tố tụng hình sự.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát về Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội:
- 2 2. Cấu thành Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội:
- 4 4. Các tình tiết định khung tăng nặng theo Điều 368 Bộ luật Hình sự 2015:
- 5 5. Phân biệt với Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội:
1. Khái quát về Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội:
1.1. Khái niệm:
Trong hoạt động tư pháp, việc truy cứu trách nhiệm hình sự là một bước quan trọng nhằm bảo đảm pháp luật được thực thi công bằng, đúng người đúng tội và đúng pháp luật. Tuy nhiên, khi người có thẩm quyền lạm dụng quyền lực, cố tình truy cứu người mà mình biết rõ là vô tội thì không chỉ xâm phạm trực tiếp quyền con người mà còn làm sai lệch bản chất của công lý, hủy hoại niềm tin của nhân dân vào cơ quan bảo vệ pháp luật. Nhận thức được tính chất đặc biệt nghiêm trọng của hành vi này, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định cụ thể tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội tại Điều 368 nhằm bảo vệ công lý, bảo đảm sự liêm chính trong hoạt động tư pháp.
“Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội là hành vi của người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự (như điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, chấp hành viên…) cố ý khởi tố, điều tra, truy tố hoặc xét xử người mà mình biết rõ là vô tội. Hành vi này thể hiện sự lạm dụng quyền lực nhà nước, đi ngược lại nguyên tắc “không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm”, làm sai lệch chức năng của cơ quan tư pháp và xâm phạm nghiêm trọng quyền tự do, danh dự, nhân phẩm, sức khỏe, tính mạng của công dân.”
1.2. Ý nghĩa:
- Thứ nhất: Quy định Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội thể hiện tinh thần thượng tôn pháp luật và cam kết bảo vệ quyền con người của Nhà nước Việt Nam. Đây là công cụ pháp lý quan trọng nhằm ngăn chặn, xử lý nghiêm những hành vi lạm quyền, sai trái trong hoạt động tư pháp; từ đó góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự công minh, liêm chính và minh bạch của nền tư pháp.
- Thứ hai: Tội truy cứu người vô tội phản ánh sự tha hóa đạo đức nghề nghiệp, sự biến chất của người thi hành công vụ, do đó việc xử lý nghiêm minh là bài học cảnh tỉnh, răn đe mạnh mẽ đối với đội ngũ cán bộ tư pháp. Quy định này giúp giáo dục ý thức nghề nghiệp, nâng cao trách nhiệm và lương tâm công vụ, bảo đảm rằng mọi hành vi áp dụng pháp luật đều phải dựa trên sự thật khách quan và tinh thần nhân đạo.
- Thứ ba: Tội danh này mang ý nghĩa bảo vệ quyền con người một cách trực tiếp và sâu sắc nhất. Việc truy cứu oan sai không chỉ cướp đi tự do, danh dự, sinh kế mà đôi khi còn tước đoạt cả sinh mạng của người vô tội. Vì vậy, việc quy định tội danh này là cam kết của pháp luật Việt Nam trong việc bảo vệ quyền sống, quyền tự do cá nhân và quyền được xét xử công bằng, phù hợp với tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và các Công ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam là thành viên.
1.3. Cơ sở pháp lý:
Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội hiện nay đang được quy định tại Điều 368 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào có thẩm quyền mà truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là không có tội, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Đối với từ 02 người đến 05 người;
c) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu;
d) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
đ) Dẫn đến việc kết án oan người vô tội về tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng;
e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:
a) Đối với 06 người trở lên;
b) Dẫn đến việc kết án oan người vô tội về tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
d) Làm người bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan tự sát.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội:
2.1. Khách thể:
Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự gồm cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án.
Ngoài ra tội danh này còn xâm phạm đến quyền lợi, lợi ích hợp pháp của công dân.
2.2. Mặt khách quan:
Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội là hành vi của người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự (như điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, chấp hành viên…) cố ý khởi tố, kết luận điều tra hoặc truy tố đối với người mà mình biết rõ là vô tội. Những hành vi này về bản chất là hành vi lạm dụng quyền lực nhà nước, trái pháp luật, làm cho người không có tội phải gánh chịu trách nhiệm hình sự một cách oan uổng, sai trái và vô nhân đạo; qua đó xâm phạm nghiêm trọng đến công lý, quyền con người và uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng.
Một người được coi là “không có tội” nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
- Không có sự việc phạm tội;
- Hành vi thực hiện không cấu thành tội phạm;
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
- Người mà hành vi phạm tội đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
- Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
- Tội phạm đã được đại xá.
Cụm từ “biết rõ là không có tội” là dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội phạm này. Điều đó có nghĩa là người phạm tội nhận thức rõ ràng, chắc chắn rằng người bị truy cứu hoàn toàn vô tội nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi khởi tố, điều tra, truy tố hoặc kết án vì động cơ cá nhân, vụ lợi, nể nang hoặc mục đích khác.
Nếu người có thẩm quyền do trình độ chuyên môn hạn chế, thiếu sót nghiệp vụ hoặc do nguyên nhân khách quan dẫn đến việc truy cứu sai mà không biết rõ người đó vô tội thì không bị coi là phạm tội theo Điều 368 Bộ luật Hình sự 2015.
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội là chủ thể đặc biệt.
Người có thẩm quyền thực hiện hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội chỉ là người có thẩm quyền trong Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và những người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động tố tụng hình sự theo quy định tại các điều 153, 163, 164 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Đó là người có thẩm quyền ra các quyết định khởi tố bị can, phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, kết luận điều tra đề nghị truy tố và người có thẩm quyền ra quyết định truy tố (bị can) theo quy định tại các Điều 179, 232, 236 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
2.4. Mặt chủ quan:
Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.
Khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội có thể có các động cơ khác nhau như tư thù, vụ lợi hoặc hống hách, coi thường pháp luật…
Tuy nhiên, động cơ phạm tội không được quy định là dấu hiệu định tội của tội phạm này. Việc đánh giá tính chất của động cơ phạm tội có thể được xem xét khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội.
3. Khung hình phạt của Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội:
Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội theo Điều 368 Bộ luật Hình sự 2015 gồm những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Trước khi được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015, Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội đã được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1985 và Bộ luật Hình sự năm 1999.
Theo khoản 1 Điều 231 Bộ luật Hình sự năm 1985: “Kiểm sát viên, Điều tra viên nào cố ý truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội thì bị phạt…”. Như vậy, theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1985, Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” là hành vi của Kiểm sát viên hoặc Điều tra viên cố ý truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội. Hình phạt đối với tội này được quy định gồm có 02 khung: Mức hình phạt thấp nhất (khoản 1) là cải tạo không giam giữ 06 tháng và mức hình phạt cao nhất (khoản 2) là phạt tù đến 07 năm. Ngoài ra, hai trường hợp có tình tiết định khung hình phạt tăng nặng là “truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia” hoặc “gây hậu quả nghiêm trọng”.
Khoản 1 Điều 293 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: “Người nào có thẩm quyền mà truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là không có tội, thì bị phạt…”. Dấu hiệu “người nào có thẩm quyền” được sử dụng thay thế cho dấu hiệu “Kiểm sát viên, Điều tra viên”; dấu hiệu “truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là không có tội”, được sử dụng thay thế cho dấu hiệu “cố ý truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” trong Bộ luật Hình sự năm 1985.
So với Bộ luật Hình sự năm 1985, Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội trong Bộ luật Hình sự năm 1999 bổ sung thêm 01 khung hình phạt tăng nặng (khoản 3). Theo đó, mức hình phạt đối với tội này cũng được tăng lên; mức hình phạt thấp nhất đối với tội này là 01 năm tù (khoản 1), mức hình phạt cao nhất là 15 năm tù (khoản 3). Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn bị áp dụng hình phạt bổ sung bắt buộc đó là “cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm”.
4. Các tình tiết định khung tăng nặng theo Điều 368 Bộ luật Hình sự 2015:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 368 Bộ luật Hình sự 2015:
4.1. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 368:
- Truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: Đây là tình tiết thể hiện mức độ nguy hiểm đặc biệt cao của hành vi phạm tội. Khi người có thẩm quyền cố tình truy cứu trách nhiệm hình sự một người vô tội về các tội danh thuộc nhóm xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, hậu quả gây ra không chỉ ảnh hưởng đến quyền con người, danh dự và nhân phẩm của nạn nhân mà còn đe dọa đến niềm tin của nhân dân vào sự công minh của pháp luật và cơ quan tư pháp. Do đó đây bị xem là hành vi có tính chất phản pháp nghiêm trọng nhất trong nhóm này.
- Đối với từ 02 người đến 05 người: Hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự nhiều người mà biết rõ họ vô tội cho thấy ý thức phạm tội có tính hệ thống, cố ý và mang tính tổ chức, vượt xa một hành vi đơn lẻ. Việc truy cứu oan cho nhiều người không chỉ làm tổn hại nghiêm trọng đến quyền tự do cá nhân mà còn gây dư luận xã hội bất bình, ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan bảo vệ pháp luật. Hành vi này thể hiện mức độ coi thường pháp luật và đạo đức nghề nghiệp nghiêm trọng, do đó được xác định là tình tiết tăng nặng khung hình phạt.
- Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu: Đây là tình tiết tăng nặng mang tính nhân đạo và xã hội sâu sắc. Những người thuộc nhóm này là đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương, cần được pháp luật bảo vệ đặc biệt. Việc cố tình truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ thể hiện sự tàn nhẫn, thiếu lương tâm và coi thường đạo đức nghề nghiệp, gây tổn thương nghiêm trọng cả về tinh thần lẫn thể chất. Do đó, hành vi này không chỉ xâm phạm công lý mà còn xâm phạm nghiêm trọng đến chuẩn mực đạo đức xã hội, nên phải bị xử lý nghiêm khắc hơn.
- Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%: Việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan sai thường gây tổn thương nghiêm trọng về tinh thần, thậm chí để lại di chứng tâm lý lâu dài cho người bị hại. Khi hành vi này dẫn đến rối loạn tâm thần, mất khả năng làm việc, sinh hoạt với tỷ lệ tổn thương được xác định từ 31% đến 60% thì hậu quả đã vượt xa giới hạn của thiệt hại tinh thần thông thường, thể hiện tính tàn khốc và hậu quả xã hội nghiêm trọng.
- Dẫn đến việc kết án oan người vô tội về tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng: Khi hành vi truy cứu người vô tội dẫn đến hậu quả là bản án kết tội oan sai, tức là công lý đã bị bóp méo, hậu quả của nó vượt ra ngoài phạm vi cá nhân và làm tổn hại nghiêm trọng đến niềm tin của nhân dân vào pháp luật và hệ thống tư pháp.
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội: Hành vi truy cứu người vô tội không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân bị oan mà còn gây bất ổn trong xã hội, làm người dân mất niềm tin vào cơ quan tư pháp, nghi ngờ tính công bằng của pháp luật; từ đó tiềm ẩn nguy cơ phát sinh các phản ứng tiêu cực, gây mất an ninh, trật tự an toàn xã hội. Đây là hậu quả mang tính gián tiếp nhưng có phạm vi ảnh hưởng rất lớn, thể hiện tính nguy hiểm chính trị xã hội sâu rộng của hành vi phạm tội.
4.2.Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 3 Điều 368:
- Đối với 06 người trở lên: Trường hợp phạm tội với số lượng người bị oan sai từ 06 người trở lên thì hành vi của người phạm tội đã mang tính chất đặc biệt nghiêm trọng, thể hiện sự cố ý kéo dài, có hệ thống, thậm chí có dấu hiệu tổ chức hoặc đồng phạm trong cơ quan tiến hành tố tụng. Hậu quả không chỉ dừng lại ở cá nhân mà ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của hệ thống tư pháp. Do đó được xếp vào khung hình phạt cao nhất để đảm bảo tính răn đe và nghiêm minh của pháp luật.
- Dẫn đến việc kết án oan người vô tội về tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: Đây là một trong những tình tiết tăng nặng đặc biệt, phản ánh hậu quả ở mức độ cao nhất của hành vi phạm tội. Khi người bị truy cứu oan bị kết án về tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, họ có thể phải chịu hình phạt tù dài hạn (thậm chí tử hình), gây ra mất mát không thể bù đắp về nhân phẩm, danh dự, tinh thần và vật chất. Tình tiết này thể hiện tính phản công lý cực độ của hành vi phạm tội, do đó cần bị xử lý ở khung hình phạt cao.
- Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên: Hành vi truy cứu oan dẫn đến hậu quả nạn nhân rối loạn tâm thần nặng, tổn thương sức khỏe trên 61% thể hiện mức độ tàn nhẫn và vô nhân đạo và coi thường quyền con người nghiêm trọng. Nạn nhân trong những trường hợp này thường mất khả năng lao động, sinh hoạt hoặc chịu tổn thương tinh thần vĩnh viễn, gây nên hậu quả xã hội đặc biệt lớn. Do đó, đây là tình tiết định khung tăng nặng cao nhất của Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội.
- Làm người bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan tự sát: Đây là tình tiết đặc biệt nghiêm trọng và nhân đạo nhất trong toàn bộ điều luật. Khi người bị truy cứu oan đến mức phải tự kết liễu đời mình do áp lực tinh thần, nhục nhã hoặc tuyệt vọng, hành vi của người có thẩm quyền không chỉ vi phạm pháp luật mà còn hủy hoại sinh mạng con người, xâm phạm nghiêm trọng quyền sống. Vì vậy, pháp luật buộc phải xử lý ở khung hình phạt cao nhất và thể hiện thái độ lên án mạnh mẽ đối với hành vi lạm quyền.
5. Phân biệt với Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội:
Tiêu chí | Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội (Điều 368 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội (Điều 369 Bộ luật Hình sự 2015) |
---|---|---|
Khái niệm | Là hành vi cố ý truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người mà mình biết rõ là vô tội. Tức là người có thẩm quyền đã khởi tố, truy tố, xét xử sai đối tượng không phạm tội. | Là hành vi cố ý không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người mà mình biết rõ là có tội. Tức là bỏ qua việc xử lý hình sự cho người phạm tội theo quy định của pháp luật. |
Khách thể bị xâm phạm | Xâm phạm quyền tự do, danh dự, nhân phẩm, tính mạng, sức khỏe và quyền con người của người bị truy cứu oan; đồng thời xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan tư pháp. | Xâm phạm hoạt động đúng đắn, tính nghiêm minh và công bằng của pháp luật hình sự, làm bỏ lọt tội phạm, gây nguy cơ mất trật tự an toàn xã hội. |
Chủ thể của tội phạm | Người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm…). | Cũng là người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự, tương tự như tội quy định tại Điều 368 Bộ luật Hình sự 2015. |
Mặt khách quan của tội phạm | Có hành vi ra quyết định khởi tố, kết luận điều tra, truy tố, xét xử hoặc các hành vi tố tụng khác đối với người mà mình biết rõ là không có tội. | Có hành vi cố ý không khởi tố, không truy tố hoặc không xét xử đối với người mà mình biết rõ là có tội mặc dù có đủ căn cứ xử lý hình sự. |
Mặt chủ quan của tội phạm | Lỗi cố ý trực tiếp: Người phạm tội biết rõ người bị truy cứu là vô tội nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi trái pháp luật. | Lỗi cố ý trực tiếp: Người phạm tội biết rõ người phạm tội là có tội nhưng vì động cơ vụ lợi, bao che, nể nang hoặc lý do cá nhân khác mà cố tình không truy cứu. |
Hậu quả pháp lý | Gây ra oan sai, kết án sai người vô tội, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín tư pháp và quyền con người. | Gây ra bỏ lọt tội phạm, làm mất hiệu lực răn đe và công bằng của pháp luật, tiềm ẩn nguy cơ tội phạm tái phạm hoặc trả thù. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Khung 3: Phạt tù từ 10 năm đến 15 năm. | Khung 1: Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 3: phạt tù từ 07 năm đến 12 năm. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
THAM KHẢO THÊM: