Trong hoạt động tố tụng và thi hành án hình sự, việc quản lý, canh gác, áp giải người bị bắt, tạm giữ, tạm giam hay đang chấp hành án phạt tù đòi hỏi tinh thần trách nhiệm cao và tuân thủ nghiêm ngặt quy định pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn xảy ra những trường hợp người thi hành công vụ thiếu trách nhiệm, để người bị giam giữ trốn thoát, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động tư pháp và trật tự an toàn xã hội. Hành vi này được pháp luật hình sự quy định và xử lý nghiêm minh tại Điều 376 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát về Tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn:
- 2 2. Cấu thành Tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn:
- 3 3. Hình phạt của Tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn:
- 4 4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 376 Bộ luật Hình sự:
- 5 5. Phân biệt với Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật:
- 6 6. Bản án điển hình của Tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn:
1. Khái quát về Tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn:
1.1. Khái niệm:
Trong những năm gần đây, mặc dù công tác quản lý, giam giữ, áp giải người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam và người đang chấp hành án phạt tù đã có nhiều tiến bộ, song tình trạng trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trong quá trình áp giải vẫn xảy ra ở một số địa phương. Các vụ việc này không chỉ gây mất an ninh, trật tự xã hội, mà còn làm giảm niềm tin của nhân dân vào cơ quan bảo vệ pháp luật.
Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ thiếu ý thức trách nhiệm của cán bộ quản lý, canh gác, áp giải, không tuân thủ đúng quy trình nghiệp vụ, lơ là, chủ quan hoặc buông lỏng trong thi hành nhiệm vụ. Một số trường hợp còn thiếu giám sát chặt chẽ trong tổ chức thi hành án phạt tù, hoặc vi phạm quy định về sử dụng phương tiện, công cụ hỗ trợ khi dẫn giải, canh gác.
Thực tế cho thấy, hậu quả của hành vi này rất nghiêm trọng: Có trường hợp người trốn tiếp tục phạm tội mới, trả thù người tố giác hoặc người tiến hành tố tụng; có trường hợp vụ án buộc phải tạm đình chỉ điều tra, ảnh hưởng đến tiến độ xét xử, truy tố và công tác thi hành án. Từ thực trạng đó, việc xử lý nghiêm minh hành vi thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ, áp giải trốn thoát là yêu cầu tất yếu nhằm bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và kỷ luật trong hoạt động tư pháp.
Khái niệm: “Tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn là hành vi của người được giao trách nhiệm trực tiếp quản lý, canh gác, áp giải nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định của pháp luật, để người bị bắt, tạm giữ, tạm giam hoặc đang chấp hành án phạt tù trốn thoát, gây hậu quả ảnh hưởng đến hoạt động tư pháp, trật tự và an toàn xã hội”.
1.2. Ý nghĩa:
Việc quy định Tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về chính trị, pháp lý và xã hội, thể hiện rõ mục tiêu của Nhà nước pháp quyền trong quản lý hoạt động tư pháp:
- Thứ nhất: Tội danh này góp phần nâng cao ý thức, tinh thần trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ, người thi hành công vụ trong lĩnh vực quản lý giam giữ, tạm giữ, áp giải và thi hành án hình sự. Đây là biện pháp pháp lý nhằm răn đe, phòng ngừa sai phạm trong hoạt động công vụ.
- Thứ hai: Quy định này đảm bảo cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được thực hiện liên tục, đúng pháp luật, tránh tình trạng gián đoạn, thất thoát hồ sơ, chứng cứ hoặc đình chỉ vụ án do người bị giam trốn thoát.
- Thứ ba: Việc xử lý nghiêm hành vi thiếu trách nhiệm còn có ý nghĩa bảo vệ trật tự an toàn xã hội, ngăn ngừa các tội phạm tái phạm hoặc phạm tội mới sau khi trốn. Đồng thời, góp phần giữ vững uy tín, kỷ luật và tính nghiêm minh của cơ quan Nhà nước trong công tác thi hành pháp luật.
- Thứ tư: Xét ở góc độ xã hội, việc xử lý tội này giúp tăng cường lòng tin của nhân dân đối với hệ thống tư pháp, củng cố niềm tin vào nguyên tắc “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” và khẳng định rằng mọi hành vi buông lỏng trách nhiệm nếu gây hậu quả cho công lý đều bị xử lý nghiêm minh.
1.3. Cơ sở pháp lý:
Tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn hiện nay đang được quy định tại Điều 376 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào được giao trách nhiệm trực tiếp quản lý, canh gác, áp giải người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định về quản lý, canh gác, áp giải để người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng trốn thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Làm vụ án bị tạm đình chỉ;
b) Người bỏ trốn trả thù người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng;
c) Người bỏ trốn tiếp tục thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Làm vụ án bị đình chỉ;
b) Người bỏ trốn tiếp tục thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng;
c) Để từ 02 người đến 05 người bỏ trốn;
d) Để người thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng bỏ trốn;
đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Người bỏ trốn tiếp tục thực hiện tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Để 06 người trở lên bỏ trốn;
c) Để người thực hiện tội phạm đặc biệt nghiêm trọng bỏ trốn.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành Tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn:
2.1. Khách thể:
Thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam hoặc người đang chấp hành án phạt tù trốn là hành vi của người được giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý, canh gác, áp giải nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định về công tác quản lý, giám sát, dẫn giải, dẫn đến việc người bị bắt, tạm giữ, tạm giam hoặc đang chấp hành án phạt tù trốn thoát, gây hậu quả nghiêm trọng cho hoạt động tư pháp và trật tự xã hội.
Tội phạm này xâm phạm trực tiếp đến hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực thi pháp luật, đảm bảo công lý và an ninh xã hội. Hành vi để người bị giam, giữ trốn thoát không chỉ vi phạm các quy định của Nhà nước về chế độ giam, giữ, áp giải mà còn có thể dẫn đến hệ quả nghiêm trọng như phải tạm đình chỉ điều tra, hoãn phiên tòa, làm gián đoạn tiến trình tố tụng. Trong trường hợp người trốn là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (như giết người, cướp tài sản, xâm phạm an ninh quốc gia…), hậu quả có thể gây nguy hại đặc biệt lớn và khó lường cho xã hội.
Đối tượng tác động của tội phạm này không phải là người bị bắt, tạm giữ hay tạm giam, mà chính là trách nhiệm pháp lý của người được giao thực hiện nhiệm vụ quản lý, canh gác, áp giải. Trách nhiệm này được xác lập trên cơ sở chức vụ, quyền hạn, nghĩa vụ công vụ; do thiếu tinh thần trách nhiệm, buông lỏng quản lý hoặc thực hiện sai quy trình, người phạm tội đã tạo điều kiện để người bị giam, giữ trốn thoát.
Từ đó có thể thấy, khách thể của Tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn là: Hoạt động đúng đắn, bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng, đồng thời là các quy định của Nhà nước về chế độ quản lý, giam giữ, áp giải và trật tự an toàn xã hội.
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định về quản lý, canh gác, áp giải để người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng trốn thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Làm vụ án bị tạm đình chỉ;
- Người bỏ trốn trả thù người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng;
- Người bỏ trốn tiếp tục thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng.
Đối tượng bỏ trốn là người đang bị giam giữ. Trong đó, người bị giam, giữ bao gồm:
- Những người đang bị tạm giam theo quyết định tạm giam của cơ quan có thẩm quyền;
- Những người đang chấp hành án phạt tù giam;
- Những người bị bắt để tạm giam trên đường dẫn giải; những người bị tạm giữ.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi thiếu trách nhiệm và việc người bị giam bỏ trốn: Hành vi thiếu trách nhiệm với hậu quả nghiêm trọng xảy ra phải có quan hệ nhân quả; người bị giam, giữ trốn gây hậu quả nghiêm trọng nhưng không phải do hành vi thiếu trách nhiệm gây ra mà do những nguyên nhân khách quan khác thì không kết án người có hành vi thiếu trách nhiệm về tội phạm này.
Hậu quả của tội phạm là việc người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù bỏ trốn. Hậu quả người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù bỏ trốn là dấu hiệu bắt buộc của tội này. Tội phạm hoàn thành kể từ thời điểm người phạm tội thiếu trách nhiệm dẫn đến người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù bỏ trốn.
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt. Chỉ có những người trực tiếp quản lý, canh gác, dẫn giải người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù mới có thể là chủ thể của tội phạm này.
Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên (Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015).
2.3. Mặt chủ quan:
Tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý.
Mục đích và động cơ không phải dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của tội danh này.
3. Hình phạt của Tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn:
Tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn theo quy định tại Điều 376 Bộ luật Hình sự 2015 gồm những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 376 Bộ luật Hình sự:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 376 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
4.1. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 376 Bộ luật Hình sự 2015:
- Làm vụ án bị đình chỉ: Đây là tình tiết tăng nặng thể hiện hậu quả nghiêm trọng của hành vi thiếu trách nhiệm. Khi người có trách nhiệm để người bị tạm giữ, tạm giam hoặc người đang chấp hành án phạt tù trốn thoát dẫn đến việc vụ án bị đình chỉ; ttức là cơ quan tiến hành tố tụng không còn đủ điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội chính. Hậu quả này trực tiếp ảnh hưởng đến việc thực thi công lý, gây thiệt hại nghiêm trọng cho hoạt động tư pháp. Do đó người phạm tội bị áp dụng khung hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù vì đã để xảy ra hậu quả làm mất khả năng xử lý tội phạm.
- Người bỏ trốn tiếp tục thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng: Tình tiết này phản ánh mức độ nguy hiểm cao của hậu quả phát sinh từ hành vi thiếu trách nhiệm. Khi người bị giam giữ trốn thoát và sau đó thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, lỗi của người quản lý, canh gác hoặc áp giải thể hiện ở việc không tuân thủ đúng quy trình, quy định, tạo điều kiện cho tội phạm tiếp tục gây nguy hiểm cho xã hội. Mức độ nguy hiểm của hành vi vì thế tăng lên rõ rệt, đe dọa trực tiếp đến an ninh, trật tự; do đó khung hình phạt được nâng lên đến 02 năm đến 07 năm tù để đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung.
- Để từ 02 người đến 05 người bỏ trốn: Việc để nhiều người trốn thoát thể hiện sự thiếu trách nhiệm ở mức độ nghiêm trọng và gây hậu quả lan rộng. Khi số lượng người bỏ trốn từ 2 đến 5 người, nguy cơ gây mất an ninh trật tự xã hội tăng cao; đồng thời cho thấy người có trách nhiệm đã buông lỏng quản lý một cách hệ thống, không chỉ sai sót cá biệt. Hành vi này thường xảy ra trong các vụ việc có tính tổ chức hoặc nơi canh gác, áp giải yếu kém. Vì vậy, pháp luật quy định đây là tình tiết định khung tăng nặng với hình phạt từ 02 đến 07 năm tù; tương ứng mức độ nguy hiểm và phạm vi hậu quả.
- Để người thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng bỏ trốn: Tình tiết này nhấn mạnh vào tính chất tội phạm ban đầu của người bị giam giữ chứ không phải hành vi mới phát sinh. Người quản lý để cho người đang bị tạm giữ, tạm giam về tội rất nghiêm trọng trốn thoát sẽ bị xử lý nặng hơn bởi đây là đối tượng nguy hiểm, có khả năng gây hậu quả xã hội lớn nếu không bị kiểm soát. Việc để tội phạm loại này trốn thoát thể hiện mức độ chủ quan, buông lỏng hoặc thiếu ý thức trách nhiệm cao, gây thiệt hại nghiêm trọng cho công tác điều tra, truy tố và xét xử.
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội: Tình tiết này phản ánh hậu quả gián tiếp nhưng có phạm vi tác động lớn. Khi người bị trốn thoát gây ra sự hoang mang trong dư luận, làm giảm niềm tin của nhân dân vào cơ quan bảo vệ pháp luật hoặc gây rối loạn trật tự trị an tại địa phương, hành vi thiếu trách nhiệm của người canh giữ, quản lý trở nên đặc biệt nguy hiểm. Việc để xảy ra tình trạng như vậy không chỉ ảnh hưởng đến vụ án cụ thể mà còn đe dọa nền an ninh quốc gia; vì vậy cần bị xử lý ở khung tăng nặng hơn của Tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn.
4.2. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 3 Điều 376 Bộ luật Hình sự 2015:
- Người bỏ trốn tiếp tục thực hiện tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: Đây là tình tiết tăng nặng cao nhất trong nhóm hậu quả hành vi. Khi người bị trốn thoát tiếp tục phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thì trách nhiệm của người quản lý, canh gác càng lớn. Hành vi thiếu trách nhiệm trong trường hợp này trực tiếp tạo điều kiện cho một tội phạm đặc biệt nguy hiểm tái diễn, gây hậu quả nghiêm trọng cho tính mạng, tài sản hoặc an ninh quốc gia. Vì vậy, khung hình phạt được nâng lên từ 05 năm đến 10 năm tù nhằm phản ánh đúng tính chất và mức độ hậu quả của hành vi.
- Để 06 người trở lên bỏ trốn: Số lượng người trốn thoát càng nhiều thì hậu quả xã hội càng nghiêm trọng. Việc để 06 người trở lên trốn thể hiện sự yếu kém, buông lỏng quản lý nghiêm trọng, thậm chí có dấu hiệu tổ chức lỏng lẻo hoặc thông đồng. Hậu quả có thể dẫn tới mất kiểm soát tình hình an ninh, gây hỗn loạn trong trại giam hoặc nơi tạm giữ. Pháp luật quy định đây là tình tiết đặc biệt nghiêm trọng, áp dụng khung hình phạt 05 năm đến 10 năm tù nhằm tăng cường kỷ luật, trách nhiệm của lực lượng thi hành công vụ trong lĩnh vực quản lý giam giữ.
- Để người thực hiện tội phạm đặc biệt nghiêm trọng bỏ trốn: Tình tiết này thể hiện mức độ nguy hiểm cực cao của hậu quả. Khi người đang bị tạm giam hoặc chấp hành án phạt tù về tội đặc biệt nghiêm trọng trốn thoát, nguy cơ gây ra thiệt hại về tính mạng, tài sản, an ninh là vô cùng lớn. Người được giao quản lý trong trường hợp này buộc phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình, biện pháp giám sát; do đó việc để xảy ra trốn thoát thể hiện sự thiếu trách nhiệm ở mức đặc biệt nghiêm trọng.
5. Phân biệt với Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật:
Tiêu chí | Tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn (Điều 376 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật (Điều 377 Bộ luật Hình sự 2015) |
---|---|---|
Khách thể bị xâm phạm | Trật tự quản lý hành chính trong hoạt động thi hành biện pháp ngăn chặn, tạm giữ, tạm giam hoặc thi hành án hình sự. | Quyền tự do thân thể của công dân và trật tự pháp lý trong hoạt động bắt, giữ, giam người theo quy định của pháp luật. |
Chủ thể thực hiện tội phạm | Người được giao trách nhiệm trực tiếp quản lý, canh gác, áp giải người bị bắt, tạm giữ, tạm giam hoặc người đang chấp hành án. | Người có chức vụ, quyền hạn trong hoạt động tố tụng hoặc thi hành pháp luật (Công an, kiểm sát viên, thẩm phán, quản giáo…). |
Hành vi khách quan | Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định về quản lý, canh gác, áp giải để người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù trốn thoát. | Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để: ra lệnh, quyết định hoặc thực hiện việc bắt, giữ, giam người trái pháp luật, hoặc không thực hiện việc trả tự do cho người được trả tự do. |
Mặt chủ quan (lỗi) | Lỗi vô ý. Người phạm tội không mong muốn hậu quả người bị giam trốn thoát. | Lỗi cố ý trực tiếp hoặc gián tiếp, người phạm tội nhận thức rõ hành vi trái pháp luật của mình nhưng vẫn lợi dụng quyền hạn để thực hiện. |
Hậu quả pháp lý bắt buộc | Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam hoặc người đang chấp hành án phạt tù trốn thoát. Đây là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. | Hậu quả là người bị bắt, giữ, giam trái pháp luật hoặc bị giam giữ quá hạn hoặc không được trả tự do đúng quy định. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 3: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. | Khung 1: Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 3: Phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
Bản chất pháp lý của hành vi | Hành vi thiếu trách nhiệm trong thi hành công vụ gây hậu quả nghiêm trọng. | Hành vi lạm quyền, lạm dụng quyền hạn xâm phạm quyền tự do thân thể của người khác. |
Tính chất lỗi và mức độ nguy hiểm | Mang tính vô ý, chủ quan, nhưng gây hậu quả nghiêm trọng đến hoạt động tư pháp. | Mang tính cố ý, xâm phạm quyền con người, được xem là nguy hiểm hơn về bản chất so với Điều 376. |
Mục đích xử lý hình sự | Nhằm răn đe, giáo dục người thi hành công vụ nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công tác quản lý giam giữ. | Nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân, ngăn chặn hành vi lạm quyền trong bắt, giữ, giam người. |
6. Bản án điển hình của Tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn:
- Tên bản án:
Bản án về tội thiếu trách nhiệm để người bị tạm giam trốn số 02/2023/HS-ST ngày 12/01/2023.
- Nội dung vụ án:
Bị cáo Nguyễn V X là Đội trưởng, Phó trưởng Nhà tạm giữ Công an huyện Q S, tỉnh Q N được phân công và chịu trách nhiệm chính trong ca trực canh gác Nguyễn Văn Ch tại Trung tâm y tế huyện Quế Sơn từ 22 giờ 00 phút ngày 31/01/2021 đến 02 giờ 30 phút ngày 01/02/2021. Quá trình thực hiện nhiệm vụ, bị cáo tự ý phân công ca trực, chủ quan lơ là trong việc quản lý công cụ hỗ trợ, giao chìa khóa còng số 8 cho người không có trách nhiệm, thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra, nhắc nhở cán bộ chiến sĩ nghĩa vụ trong ca trực và ngủ quên trong ca trực để cho Nguyễn Văn Ch lợi dụng sơ hở lấy được chìa khóa mở còng chân, trốn thoát.
Hậu quả: Trong thời gian bỏ trốn Nguyễn Văn Ch đã thực hiện 02 tội phạm mới trong đó có tội phạm rất nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo X đã vi phạm vào điểm a khoản 2 Điều 6 Thông tư số 33/2017/TT-BCA ngày 19/9/2017 của Bộ Công an về tiếp nhận, quản lý giam giữ, người bị tạm giữ, người bị tạm giam và khoản 1 Điều 14 Quy chế hoạt động của Cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam Công an huyện Quế Sơn.
Với hành vi nêu trên, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: bị cáo Nguyễn V X phạm tội “Thiếu trách nhiệm để người bị tạm giam trốn” theo điểm b, khoản 2, Điều 376 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng số 6875/CT-VKSTC-V6 ngày 30 tháng 11 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật.
- Quyết định của Tòa án:
+ Tuyên bố: bị cáo Nguyễn V X phạm tội “Thiếu trách nhiệm để người bị tạm giam trốn”.
+ Xử phạt bị cáo Nguyễn V X 27 (Hai mươi bảy) tháng cải tạo không giam giữ. Thời điểm bắt đầu tính thời gian cải tạo không giam giữ là ngày Ủy ban nhân dân thị trấn Đông Phú, huyện Q S, tỉnh Q N nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.
THAM KHẢO THÊM: