Trong bối cảnh công nghệ số phát triển mạnh mẽ, các hành vi lợi dụng mạng máy tính, mạng viễn thông và phương tiện điện tử để chiếm đoạt tài sản ngày càng gia tăng với thủ đoạn tinh vi, gây thiệt hại lớn cho cá nhân, tổ chức và xã hội. Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định cụ thể tại Điều 290 nhằm xử lý nghiêm minh, bảo vệ an toàn tài sản và góp phần giữ vững trật tự an ninh trong môi trường mạng.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát về Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản:
- 1.1 1.1. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản là gì?
- 1.2 1.2. Ý nghĩa của Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự:
- 1.3 1.3. Cơ sở pháp lý của Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản:
- 2 2. Cấu thành Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản:
- 4 4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 290 Bộ luật Hình sự 2015:
- 5 5. Phân biệt với Tội vi phạm quy định về kinh doanh theo phương thức đa cấp:
- 6 6. Bản án điển hình của Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản:
1. Khái quát về Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản:
1.1. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản là gì?
Trong bối cảnh công nghệ số phát triển mạnh mẽ như hiện nay thì tội phạm công nghệ cao ngày càng gia tăng với nhiều thủ đoạn tinh vi hơn. Các hành vi phổ biến bao gồm: đánh cắp thông tin thẻ ngân hàng, tạo lập website giả mạo để lừa đảo, tấn công chiếm quyền truy cập tài khoản trực tuyến, hoặc sử dụng dịch vụ viễn thông internet trái phép… để chiếm đoạt tài sản.
Thực tế cho thấy, nhiều vụ án chiếm đoạt tài sản qua mạng gây ra thiệt hại lớn, ảnh hưởng đến hàng nghìn cá nhân và tổ chức. Điển hình là các vụ lừa đảo trong hoạt động thương mại điện tử, huy động vốn đa cấp trá hình hoặc chiếm đoạt tiền thông qua giao dịch chứng khoán, tiền ảo. Đáng chú ý là loại tội phạm này không chỉ xảy ra ở đô thị mà đã lan rộng đến nông thôn – nơi người dân ít có kinh nghiệm phòng tránh và rất dễ trở thành nạn nhân. Xu hướng xuyên quốc gia của loại tội phạm này cũng đặt ra nhiều thách thức cho công tác điều tra, truy tố và xét xử của Cơ quan có thẩm quyền.
Có thể đưa ra khái niệm về Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản như sau:
“Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi của cá nhân hoặc tổ chức lợi dụng công nghệ, kỹ thuật số để thực hiện các thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Điểm đặc trưng của tội danh này là hành vi phạm tội không diễn ra trực tiếp ngoài xã hội mà thông qua các phương tiện công nghệ (máy tính, mạng internet, điện thoại, ví điện tử, hệ thống ngân hàng điện tử…). Đây là loại tội phạm đặc thù và có sự kết hợp yếu tố công nghệ với yếu tố chiếm đoạt tài sản, khác với các tội lừa đảo truyền thống – vốn chỉ dựa vào sự gian dối trực tiếp giữa người với người.”
1.2. Ý nghĩa của Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự:
Quy định tội danh này trong Bộ luật Hình sự 2015 có nhiều ý nghĩa quan trọng:
- Thứ nhất, bảo vệ tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức: Khi các giao dịch điện tử ngày càng phổ biến thì việc xử lý nghiêm khắc hành vi chiếm đoạt tài sản qua mạng giúp củng cố hơn niềm tin của người dân và doanh nghiệp vào môi trường số.
- Thứ hai, góp phần ổn định và phát triển kinh tế – xã hội: Thương mại điện tử, ngân hàng điện tử, ví điện tử và các dịch vụ trực tuyến chỉ có thể phát triển mạnh mẽ khi hệ thống pháp luật có cơ chế phòng ngừa, trừng trị hành vi xâm phạm.
- Thứ ba, răn đe và phòng ngừa tội phạm công nghệ cao: Đây là lĩnh vực có tính chất xuyên quốc gia và thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn. Việc quy định rõ chế tài giúp nâng cao hiệu quả răn đe, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành của cộng đồng.
- Thứ tư, khẳng định vai trò quản lý nhà nước trong việc bảo vệ an ninh mạng, an toàn thông tin và quyền lợi hợp pháp của công dân, phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế và chuyển đổi số quốc gia.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản:
Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản hiện nay đang được quy định tại Điều 290 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử thực hiện một trong những hành vi sau đây, nếu không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 173 và Điều 174 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;
b) Làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;
c) Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản;
d) Lừa đảo trong thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản;
đ) Thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Có tính chất chuyên nghiệp;
d) Số lượng thẻ giả từ 50 thẻ đến dưới 200 thẻ;
đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
e) Gây thiệt hại từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
c) Số lượng thẻ giả từ 200 thẻ đến dưới 500 thẻ.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thiệt hại 500.000.000 đồng trở lên;
c) Số lượng thẻ giả 500 thẻ trở lên.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
2. Cấu thành Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản:
2.1. Khách thể:
Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản xâm phạm trực tiếp đến: Trật tự quản lý hành chính nhà nước nhà nước, trật tự an toàn công cộng. Cụ thể là xâm phạm hoạt động bình thường của mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet, môi trường giao dịch điện tử, hoạt động thương mại điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn tín dụng, mua bán và thanh toán cổ phiếu qua mạng.
Đối tượng tác động của tội phạm này là tài sản. Ngoài ra, việc xác định người bị hại trong các vụ án Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản không phải là yếu tố bắt buộc để buộc tội đối với người phạm tội.
2.2. Mặt khách quan:
a. Hành vi:
Hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm của Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản bao gồm:
- Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của Cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;
- Làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;
- Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản;
- Lừa đảo trong thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản;
- Thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông và internet nhằm chiếm đoạt tài sản.
b. Về công cụ, phương tiện:
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội phạm này là mọi hành vi khách quan phải hoạt động thông qua môi trường mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet và đối tượng phạm tội không có sự tiếp xúc trực tiếp với người bị hại.
c. Về hậu quả:
Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành cơ bản của tội phạm này, tuy nhiên hậu quả do hành vi phạm tội gây ra lại là tình tiết định khung hình phạt.
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản là bất kỳ người nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của Bộ luật hình sự 2015 (đủ 16 tuổi trở lên theo Điều 12).
Tuy nhiên, xuất phát từ đặc điểm của hành vi phạm tội nên người phạm tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành chiếm đoạt tài sản thường là người có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm, hiểu biết trong hoạt động công nghệ thông tin, điện tử tin học.
2.4. Mặt chủ quan:
Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản được thực hiện với lỗi cố ý.
Động cơ và mục đích không phải yếu tố bắt buộc trong cấu thành tội phạm của tội danh này.
3. Khung hình phạt của Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản:
Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản theo Điều 290 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
- Khung 4: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 290 Bộ luật Hình sự 2015:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản được quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 290 Bộ luật Hình sự 2015:
4.1. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 290 Bộ luật Hình sự 2015:
- Có tổ chức theo điểm a khoản 2 Điều 290 Bộ luật Hình sự 2015:
Phạm tội có tổ chức là trường hợp nhiều người cùng cố ý câu kết chặt chẽ và có sự phân công vai trò cụ thể để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản qua mạng. Đây là tình tiết đặc biệt nghiêm trọng vì tính chất chuyên nghiệp và thủ đoạn tinh vi, gây khó khăn cho cơ quan chức năng trong việc phát hiện và xử lý. Hành vi này cho thấy ý chí phạm tội bền bỉ và nguy hiểm hơn nhiều so với trường hợp phạm tội đơn lẻ. Do vậy cần áp dụng khung hình phạt tăng nặng của Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
- Phạm tội 02 lần trở lên theo điểm b khoản 2 Điều 290 Bộ luật Hình sự 2015:
Trường hợp người phạm tội đã thực hiện hành vi chiếm đoạt bằng mạng máy tính, mạng viễn thông từ 02 lần trở lên thì thể hiện sự tái phạm có tính chất liên tục. Điều này chứng minh ý thức coi thường pháp luật và làm tăng mức độ nguy hiểm cho xã hội, đồng thời gây ra nhiều thiệt hại hơn cho các cá nhân và tổ chức bị hại. Vì vậy đây là tình tiết tăng nặng khung hình phạt theo khoản 2 Điều 290.
- Có tính chất chuyên nghiệp theo điểm c khoản 2 Điều 290 Bộ luật Hình sự 2015:
Khi hành vi phạm tội được thực hiện thường xuyên và liên tục, coi đó là nguồn sống chính hoặc nguồn thu nhập đáng kể thì được coi là có tính chất chuyên nghiệp. Đây là trường hợp người phạm tội biến hành vi vi phạm thành nghề nghiệp, từ đó mức độ nguy hiểm và hậu quả gây ra cho xã hội rất lớn. Vì vậy cần áp dụng khung hình phạt nặng hơn trong trường hợp này.
- Số lượng thẻ giả từ 50 thẻ đến dưới 200 thẻ theo điểm d khoản 2 Điều 290 Bộ luật Hình sự 2015:
Việc làm, tàng trữ, mua bán hoặc lưu hành số lượng lớn thẻ ngân hàng giả (cụ thể là từ 50 đến dưới 200 thẻ) cho thấy quy mô phạm tội không nhỏ, nguy cơ chiếm đoạt tài sản của nhiều cá nhân và tổ chức cùng lúc. Điều này làm mất lòng tin vào hệ thống ngân hàng và hệ thống thương mại điện tử, gây bất ổn trong lĩnh vực tài chính. Vì thế đây là một trong những tình tiết định khung tăng nặng của Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng theo điểm đ khoản 2 Điều 290 Bộ luật Hình sự 2015:
Khi giá trị tài sản bị chiếm đoạt đạt ngưỡng trên 50 triệu đồng thì tính chất nghiêm trọng của hành vi được xác định rõ. Đây là mức thiệt hại không nhỏ, có thể ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của cá nhân hoặc hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, do đó cần áp dụng mức hình phạt cao hơn để răn đe. Vì thế cần áp dụng khung hình phạt nặng hơn tỏng trường hợp này.
- Gây thiệt hại từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng theo điểm e khoản 2 Điều 290 Bộ luật Hình sự 2015:
Ngoài hành vi chiếm đoạt thì việc gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, cá nhân bằng số tiền từ 50 triệu đến dưới 300 triệu đồng cũng được coi là tình tiết định khung tăng nặng khung hình phạt của Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Đây là những hậu quả nghiêm trọng phát sinh từ việc tấn công, sử dụng mạng; có thể làm gián đoạn hoạt động kinh doanh hoặc gây thiệt hại tài chính đáng kể.
- Tái phạm nguy hiểm theo điểm g khoản 2 Điều 290 Bộ luật Hình sự 2015:
Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
+ Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
+ Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
4.2. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 3 Điều 290 Bộ luật Hình sự 2015:
- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng theo điểm a khoản 3 Điều 290 Bộ luật Hình sự 2015:
Hành vi chiếm đoạt với giá trị từ 200 triệu đến dưới 500 triệu đồng cho thấy mức độ nghiêm trọng cao hơn. Đây là ngưỡng tài sản có giá trị lớn, gây ảnh hưởng nặng nề đến tình hình tài chính của người bị hại và tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn trong giao dịch điện tử. Vì vậy cần áp dụng khung hình phạt nặng hơn theo khoản 3 Điều 290.
- Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng theo điểm b khoản 3 Điều 290 Bộ luật Hình sự 2015:
Thiệt hại về tài sản trong khoảng từ 300 triệu đến dưới 500 triệu đồng phản ánh mức độ nghiêm trọng rõ rệt. Trường hợp này không chỉ gây ảnh hưởng đến nạn nhân mà còn có thể tác động tiêu cực đến uy tín của các tổ chức tài chính, ngân hàng và thương mại điện tử. Vì vậy đây là một trong những tình tiết tăng nặng khung hình phạt theo khoản 3 Điều 290 Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
- Số lượng thẻ giả từ 200 thẻ đến dưới 500 thẻ theo điểm c khoản 3 Điều 290 Bộ luật Hình sự 2015:
Đây là tình tiết phản ánh quy mô đặc biệt lớn, tiềm ẩn rủi ro nghiêm trọng cho hệ thống thanh toán và người dùng. Số lượng thẻ giả ở mức này có thể phục vụ cho một mạng lưới tội phạm rộng, gây thiệt hại hàng loạt và khó kiểm soát. Vì vậy cần xử lý nghiêm khắc hơn so với các trường hợp phạm tội thông thường khác.
4.3. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 4 Điều 290 Bộ luật Hình sự 2015:
- Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên theo điểm a khoản 4 Điều 290 Bộ luật Hình sự 2015:
Khi giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 500 triệu đồng trở lên thì mức độ thiệt hại được coi là đặc biệt nghiêm trọng. Đây là tình tiết định khung cao nhất, phản ánh ý chí chiếm đoạt với quy mô lớn và hậu quả nặng nề cho xã hội. Vì vậy cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc nhất của Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản để đảm bảo tính răn đe chung.
- Gây thiệt hại 500.000.000 đồng trở lên theo điểm b khoản 4 Điều 290 Bộ luật Hình sự 2015:
Thiệt hại từ 500 triệu đồng trở lên là mức thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng, thiệt hại này có thể ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp, tổ chức hoặc gây ra khủng hoảng tài chính đối với cá nhân. Trường hợp này đòi hỏi hình phạt thật nghiêm minh hơn để đảm bảo tính răn đe và ngăn ngừa chung.
- Số lượng thẻ giả 500 thẻ trở lên theo điểm c khoản 4 Điều 290 Bộ luật Hình sự 2015:
Hành vi làm hoặc lưu hành từ 500 thẻ giả trở lên thể hiện quy mô tội phạm cực lớn, có khả năng tác động tới cả hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. Đây là tình tiết định khung nặng nhất của Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, từ đó phản ánh mức độ đặc biệt nguy hiểm của hành vi vi phạm và cần trừng trị nghiêm khắc để bảo vệ an toàn tài chính – ngân hàng.
5. Phân biệt với Tội vi phạm quy định về kinh doanh theo phương thức đa cấp:
Tiêu chí | Tội vi phạm quy định về kinh doanh theo phương thức đa cấp (Điều 217a Bộ luật Hình sự 2015) | Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290 Bộ luật Hình sự 2015) |
---|---|---|
Khách thể bị xâm phạm | Trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp; quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia. | Quyền sở hữu tài sản của cá nhân, tổ chức thông qua hành vi gian dối trên môi trường mạng. |
Hành vi phạm tội cơ bản | Hành vi: Tổ chức hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp mà không có giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp hoặc không đúng với nội dung giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp. | Bao gồm các hành vi:
|
Mục đích | Trục lợi bất chính từ việc tổ chức hoạt động đa cấp trái phép và gây thiệt hại cho người tham gia và xã hội. | Chiếm đoạt tài sản của cá nhân và tổ chức bằng thủ đoạn công nghệ cao. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm. Khung 2: Phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Khung 4: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. |
Tính chất pháp lý | Tội phạm kinh tế và xâm phạm trật tự quản lý trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp. | Tội phạm công nghệ cao và xâm phạm quyền sở hữu tài sản bằng thủ đoạn mạng. |
6. Bản án điển hình của Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản:
- Tên bản án:
Bản án về tội sử dụng mạng máy tính thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản số 45/2024/HS-ST ngày 23/01/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
- Nội dung vụ án:
Vào tháng 9/2011, do quen biết từ trước trên mạng Internet, Trịnh Thị Ngọc B1 từ tỉnh Đồng Tháp đến sống cùng Phùng Khắc K tại quận G, Thành phố Hồ Chí Minh để đi học. Trong thời gian đó, K hỏi B1 có tài khoản mở tại ngân hàng để khách hàng chuyển tiền vào tài khoản khi mua các sản phẩm điện tử, thì B1 đưa K tài khoản số 051100039xxxx mang tên Phan Thị T (bạn của B1) mở tại V2. Một thời gian sau, K đưa cho B1 giữ 01 thẻ ATM với tài khoản số 711A5580xxxx, mang tên Dương Minh T1, mở tại V3 do bạn K là Nguyễn Trương Xuân N1 cho. B1 quản lý 02 thẻ ATM với 02 số tài khoản trên, mỗi khi có tiền chuyển vào thì rút tiền trong 02 tài khoản mang về giao lại cho K.
Đến tháng 3/2012, khi nghe Phùng Khắc K trao đổi với Nguyễn Trương Xuân N1 thì B1 phát hiện các sản phẩm điện tử như máy ảnh, điện thoại, máy tính bảng… K đăng tin quảng cáo rao bán trên mạng Internet tại các trang web mua bán là không có thật, toàn bộ số tiền chuyển vào 02 tài khoản B đang giữ là do lừa dối khách hàng mua hàng chuyển tiền vào mà có. Do đó, B1 nói K không thực hiện hành vi trên nữa và trả lại tiền cho khách hàng, nhưng K nói nếu bị phát hiện thì K hoàn toàn chịu trách nhiệm. Sau đó, K, B1 vẫn tiếp tục thực hiện hành vi trên.
Từ tháng 9/2011 đến tháng 6/2012, Phùng Khắc K, Nguyễn Trương Xuân N1 là người trực tiếp đăng tin bán các sản phẩm điện tử không có thật tại các trang web như rongbay.com, muaban.com.vn, 5giay.vn, raovat.com… Tuy nhiên, Phùng Khắc K và Trịnh Thị Ngọc B1 thực hiện các hành vi trên hoàn toàn độc lập, không thống nhất, bàn B1, trao đổi với Nguyễn Trương Xuân N1. Khi khách hàng có nhu cầu mua sản phẩm, liên hệ theo số điện thoại trên tin đã đăng thì được K, B1 trao đổi, yêu cầu khách hàng chuyển từ 10% đến 50% giá trị sản phẩm cần mua vào các tài khoản chỉ định để chiếm đoạt tài sản. Khách hàng chuyển tiền vào các tài khoản thì không liên lạc được số điện thoại và không nhận được sản phẩm như đã thỏa thuận.
Với thủ đoạn nêu trên, Phùng Khắc K và Trịnh Thị Ngọc B1 đã chiếm đoạt số tiền 79.671.153 đồng thông qua tài khoản 051100039xxxx, tên Phan Thị T mở tại V2 và 116.630.000 đồng qua tài khoản 711A5580xxxx, tên Dương Minh T1 mở tại V3. Tổng số tiền Phùng Khắc K và Trịnh Thị Ngọc B1 chiếm đoạt của khách hàng là 196.301.153 đồng. Trong đó, tổng số tiền Trịnh Thị Ngọc B1 được chia từ số tiền chiếm đoạt được là 12.000.000 đồng, số tiền còn lại Phùng Khắc K chiếm hưởng.
Tất cả các tài khoản mang tên Dương Minh T1 mở tại các ngân hàng T5, V3, S1 và tài khoản tên Lê Thành T2 mở tại ngân hàng A do Nguyễn Trương Xuân N1 sử dụng chứng minh nhân dân nhặt được của Lê Thành T2 và Dương Minh T1 lập ra; tài khoản tên Phan Thị T mở tại V2 do Trịnh Thị Ngọc B1 xin thẻ ATM của Phan Thị T để sử dụng (tài khoản không có tiền lúc đưa cho B1 sử dụng). Toàn bộ số tiền phát sinh tại các tài khoản là do thực hiện hành vi lừa đảo khách hàng mà có.
- Quyết định của Tòa án:
+ Tuyên bố bị cáo Phùng Khắc K phạm tội “Sử dụng mạng máy tính thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”.
+ Xử phạt bị cáo Phùng Khắc K 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/6/2023.
THAM KHẢO THÊM: