Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc được quy định tại Điều 311 Bộ luật Hình sự 2015. Đây là hành vi vi phạm pháp luật đặc biệt nguy hiểm, tiềm ẩn nguy cơ gây cháy nổ, ngộ độc, thiệt hại nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe con người và tài sản; vì vậy cần bị xử lý nghiêm khắc nhằm bảo đảm trật tự an toàn xã hội.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát chung về Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc:
- 1.1 1.1. Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc là gì?
- 1.2 1.2. Ý nghĩa của Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc trong pháp luật hình sự:
- 1.3 1.3. Cơ sở pháp lý của Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc:
- 4 4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 311 Bộ luật Hình sự 2015:
- 5 5. Phân biệt với Tội vi phạm quy định về quản lý chất cháy, chất độc:
- 6 6. Bản án điển hình của Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc:
1. Khái quát chung về Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc:
1.1. Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc là gì?
Trong thời gian qua, tình hình sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán và sử dụng trái phép chất cháy, chất độc ở Việt Nam diễn biến ngày càng phức tạp. Nhiều đối tượng lợi dụng sự phát triển của mạng xã hội và các kênh giao dịch trực tuyến để trao đổi, mua bán các loại hóa chất dễ gây cháy nổ, chất độc hại. Một số trường hợp còn tổ chức vận chuyển trái phép qua biên giới nhằm thu lợi bất chính. Các hành vi này không chỉ tiềm ẩn nguy cơ gây cháy nổ, ô nhiễm môi trường mà còn có thể bị lợi dụng để thực hiện các hành vi phạm tội nguy hiểm như khủng bố, hủy hoại tài sản, gây rối trật tự công cộng… Thực tế đã xảy ra không ít vụ việc gây thiệt hại lớn về tính mạng, sức khỏe con người và tài sản; dấy lên hồi chuông cảnh báo về tính chất nguy hiểm đặc biệt của loại tội phạm này.
Có thể đưa ra khái niệm về Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc như sau:
“Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc là hành vi cố ý vi phạm pháp luật hình sự, trong đó người phạm tội sản xuất, cất giữ, vận chuyển, tiêu thụ hoặc sử dụng các loại chất có khả năng gây cháy, nổ hoặc chất độc hại mà không được cơ quan có thẩm quyền cho phép. Đây là những hành vi trái phép, đi ngược lại quy định về quản lý Nhà nước đối với các chất nguy hiểm, trực tiếp đe dọa đến an ninh trật tự xã hội, an toàn tính mạng và sức khỏe cộng đồng.”
1.2. Ý nghĩa của Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc trong pháp luật hình sự:
Việc quy định và xử lý nghiêm minh tội danh này có nhiều ý nghĩa:
- Thứ nhất, bảo đảm an toàn xã hội: Ngăn chặn nguy cơ cháy, nổ, ngộ độc và ô nhiễm môi trường có thể gây thiệt hại lớn.
- Thứ hai, bảo vệ quyền sống và sức khỏe của con người: Hạn chế tối đa những rủi ro gây thương vong từ việc sử dụng trái phép chất cháy hoặc chất độc.
- Thứ ba, duy trì trật tự quản lý Nhà nước: Khẳng định tính nghiêm minh của pháp luật trong quản lý các loại hóa chất, vật liệu nguy hiểm.
- Thứ tư, góp phần phòng ngừa và răn đe chung: Nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật cũng như ngăn chặn tình trạng các đối tượng lợi dụng chất cháy, chất độc để phạm tội.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc:
Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc hiện nay đang được quy định tại ĐIều 311 Bộ luật Hình sự 2015:
“1. Người nào sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Vật phạm pháp có số lượng lớn;
c) Làm chết người;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
e) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
g) Vận chuyển, mua bán qua biên giới;
h) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Vật phạm pháp có số lượng rất lớn;
b) Làm chết 02 người;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Vật phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn;
b) Làm chết 03 người trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
d) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc:
2.1. Khách thể:
Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc xâm phạm trực tiếp đến: Những quy định của Nhà nước về sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng và mua bán chất cháy, chất độc. Chất cháy, chất độc là những chất có khả năng hủy hoại môi trường sống, có khả năng gây rat hiệt hại cho tính mạng, sức khỏe của con người và các sinh vật. Vì vậy, Nhà nước quản lý chặt chẽ chỉ những cơ quan, tổ chức nào được phép của Nhà nước mới được quyền sản xuất, tàng trữ, sử dụng, vận chuyển hoặc mua bán những chất này.
Đối tượng tác động của tội phạm được quy định trong điều này bao gồm:
- Chất cháy: Là chất có đặc tính tự bốc cháy khi tiếp xúc với ôxy trong không khí, nước hoặc khi có tác động của các yếu tố khác và những chất dễ tự bốc cháy ở nhiệt độ cao như: ecrindine, các hợp chất có chứa thành phần ni-tơ, phốt pho, xăng, dầu, khí đốt…
- Chất độc: Là những chất hoặc những hợp chất có khả năng gây ra sự nguy hiểm cho tính mạng, sức khỏe con người cũng như sinh vật và môi trường sống nói chung như chất: Asen, aminophenol… và các chất khác có độc tính cao được quy định trong các bảng hóa chất nguy hiểm do Ủy ban khoa học và kỹ thuật Nhà nước quy định.
2.2. Mặt khách quan:
Tội phạm này thể hiện ở các hành vi: Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép chất cháy, chất độc. Cụ thể như sau:
- Sản xuất trái phép chất cháy, chất độc: Là làm ra các loại chất cháy, chất độc dưới bất kỳ hình thức nào mà không được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép.
- Tàng trữ trái phép chất cháy, chất độc: Là cất giữ bất hợp pháp chất cháy, chất độc ở bất cứ nơi nào như: Trong nhà ở; phòng làm việc; trụ sở cơ quan, tổ chức; phương tiện giao thông; trong túi quần áo, túi xách… mà không nhằm mục đích mua bán hay sản xuất trái phép chất cháy, chất độc hoặc vận chuyển từ này đến nơi khác. Nguồn gốc chất cháy, chất độc mà người phạm tội tàng trữ không kể do nguồn gốc nào mà có như: được tặng, cho, đào được, nhặt được… Tuy nhiên, nếu người phạm tội cất giấu chúng là vật chứng của vụ án nhằm che giấu tội phạm thì tuỳ trường hợp có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ chất cháy, chất độc và tội che giấu tội phạm.
- Vận chuyển trái phép chất cháy, chất độc: Là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp chất cháy, chất độc từ nơi này đến nơi khác, từ vị trí này sang vị trí khác, từ người này sang người khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác… bằng bất kỳ phương thức nào (trừ hình thức chiếm đoạt), nhưng đều không nhằm mục đích mua bán.
- Sử dụng trái phép chất cháy, chất độc: Là dùng chất cháy, chất độc vào mục đích mà người sử dụng quan tâm như: đốt rừng làm nương rẫy,.v.v…
- Mua bán trái phép chất cháy, chất độc: Là bán hay mua để bán lại; vận chuyển để bán cho người khác; tàng trữ để bán lại hoặc để sản xuất ra chất cháy, chất độc để bán lại trái phép; hoặc dùng chất cháy, chất độc để đổi lấy hàng hoá hay dùng hàng hoá để đổi lấy chất cháy, chất độc.
Hậu quả không phải dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm, tội phạm hoàn thành kể từ thời điểm có một trong những hành vi khách quan xảy ra. Tội phạm được coi là hoàn thành khi người phạm tội thực hiện một trong những hành vi trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm một cách trái phép tức là không được phép của các cơ quan có thẩm quyền. Tội phạm này không yêu cầu về hậu quả xảy ra (cấu thành hình thức).
2.3. Mặt chủ quan:
Tội phạm được thực hiện dưới hình lỗi cố ý.
Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
2.4. Chủ thể:
Tội phạm được thực hiện bởi những người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự đạt độ tuổi theo luật định. Theo Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 thì chủ thể của tội phạm này là người từ đủ 16 tuổi trở lên, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi
3. Khung hình phạt của Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc:
Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc theo Điều 311 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
- Khung 4: Phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.
4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 311 Bộ luật Hình sự 2015:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc được quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 311 Bộ luật Hình sự 2015:
4.1. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 311 Bộ luật Hình sự 2015:
- Có tổ chức: Phạm tội được thực hiện có tổ chức tức là có sự cấu kết và phân công vai trò chặt chẽ giữa nhiều người với nhau nhằm sản xuất, mua bán, vận chuyển hoặc tàng trữ trái phép chất cháy, chất độc thì tính nguy hiểm của hành vi tăng lên rõ rệt. Đây không còn là vi phạm cá nhân đơn lẻ mà trở thành hoạt động phạm tội mang tính chuyên nghiệp, gây khó khăn cho cơ quan chức năng trong việc phát hiện và xử lý.
- Vật phạm pháp có số lượng lớn: Tình tiết này phản ánh mức độ nguy hiểm gia tăng khi hành vi phạm tội liên quan đến một khối lượng lớn chất cháy hoặc chất độc. Chỉ cần một phần nhỏ của số lượng này bị phát tán ra ngoài môi trường cũng có thể gây hậu quả khôn lường, đe dọa đến an toàn tính mạng, sức khỏe con người và môi trường sống. Vì vậy, pháp luật đặt ra hình phạt nghiêm khắc hơn để ngăn chặn hành vi vi phạm ở quy mô lớn.
- Làm chết người: Nếu hành vi phạm tội dẫn đến cái chết của một người thì đây là hậu quả nghiêm trọng, làm tăng mức độ nguy hiểm của tội phạm. Thiệt hại về tính mạng là không thể khắc phục, vì vậy pháp luật quy định khung hình phạt cao hơn nhằm răn đe phòng ngừa và bảo vệ quyền được sống – quyền cơ bản nhất của con người.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên: Trường hợp hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép chất cháy, chất độc gây ra thương tích nặng cho một người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên thì được coi là gây hậu quả nghiêm trọng. Đây là mức độ tổn hại lớn đến sức khỏe, ảnh hưởng đến khả năng lao động và cuộc sống lâu dài của nạn nhân. Vì vậy cần bị xử lý ở khung hình phạt nặng hơn.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%: Nếu hành vi phạm tội gây thương tích cho nhiều người với tổng tỷ lệ tổn thương từ 61% đến 121% thì hậu quả xã hội càng nghiêm trọng. Tình tiết này thể hiện mức độ lan rộng và tính chất nguy hiểm của hành vi, không chỉ ảnh hưởng đến một cá nhân mà còn tác động đến nhiều người, làm gia tăng tính nguy hiểm cho xã hội.
- Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng: Ngoài thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, nếu hành vi phạm tội gây ra thiệt hại đáng kể về tài sản (từ 100 triệu đến dưới 500 triệu đồng) thì đây cũng là căn cứ để nâng khung hình phạt. Tài sản là kết quả lao động, sản xuất kinh doanh của tổ chức, cá nhân nên việc gây thiệt hại ở mức này làm ảnh hưởng lớn đến lợi ích kinh tế xã hội.
- Vận chuyển, mua bán qua biên giới: Hành vi vận chuyển hoặc mua bán chất cháy, chất độc qua biên giới tiềm ẩn nhiều nguy cơ nghiêm trọng hơn so với trong nội địa vì tình tiết này liên quan đến an ninh quốc gia, quan hệ đối ngoại và công tác kiểm soát biên giới. Đây là tình tiết thể hiện tính chất nguy hiểm đặc biệt của hành vi phạm tội. Do đó cần bị xử lý ở khung hình phạt cao.
- Tái phạm nguy hiểm: Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm: Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
4.2. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 3 Điều 311 Bộ luật Hình sự 2015:
- Vật phạm pháp có số lượng rất lớn: Nếu hành vi phạm tội liên quan đến số lượng chất cháy, chất độc ở mức rất lớn thì tính chất nguy hiểm tăng lên rõ rệt. Các chất này vốn đã tiềm ẩn nguy cơ cháy nổ, gây độc hại cho sức khỏe con người và môi trường, khi được sản xuất, mua bán hoặc vận chuyển với khối lượng rất lớn thì rất dễ dẫn đến thảm họa. Vì vậy, pháp luật quy định mức hình phạt nặng hơn để răn đe.
- Làm chết 02 người: Nếu hành vi phạm tội dẫn đến cái chết của từ hai người trở lên thì hậu quả đã chuyển từ nghiêm trọng sang đặc biệt nghiêm trọng. Việc gây thiệt hại tính mạng ở mức độ này thể hiện mức độ nguy hiểm đặc biệt cao và gây bức xúc trong xã hội.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%: Hành vi phạm tội dẫn đến thương tích hoặc tổn hại sức khỏe nghiêm trọng cho nhiều người (tổng tỷ lệ thương tật từ 122% trở lên) cho thấy mức độ lan rộng và hậu quả lớn của hành vi. Điều này chứng tỏ mức độ nguy hiểm vượt xa trường hợp thông thường, không chỉ ảnh hưởng đến một số ít cá nhân mà còn có thể làm rối loạn trật tự xã hội và gây hoang mang trong cộng đồng.
- Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng: Trong trường hợp hành vi phạm tội gây hậu quả đặc biệt lớn về tài sản (cụ thể là từ 500 triệu đồng trở lên) thì hậu quả kinh tế là rất nghiêm trọng. Đây có thể là thiệt hại cho tài sản công, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất hoặc tài sản của cá nhân, làm suy giảm nguồn lực kinh tế cũng như ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội. Do đó, pháp luật quy định mức phạt từ 03 đến 07 năm tù cho trường hợp này.
4.3. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 4 Điều 311 Bộ luật Hình sự 2015:
- Vật phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn: Trường hợp này thể hiện hành vi phạm tội với quy mô cực kỳ nghiêm trọng, liên quan đến khối lượng chất cháy, chất độc vượt xa mức thông thường. Chỉ cần một phần nhỏ trong số đó phát tán ra ngoài cũng có thể gây thảm họa môi trường, cháy nổ hoặc gây tử vong hàng loạt. Chính vì vậy, đây là tình tiết đặc biệt nguy hiểm, đặt người phạm tội vào khung hình phạt nghiêm khắc nhất để bảo đảm răn đe và phòng ngừa.
- Làm chết 03 người trở lên: Hành vi phạm tội gây ra cái chết cho từ 03 người trở lên phản ánh hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cũng như xâm phạm nghiêm trọng quyền được sống của con người. Tính mạng bị tước đoạt ở mức độ này cho thấy hành vi phạm tội không chỉ nguy hiểm cho một số ít cá nhân mà còn làm mất ổn định trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, pháp luật buộc phải áp dụng hình phạt ở mức rất nghiêm khắc.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên: Nếu hành vi phạm tội dẫn đến hậu quả nhiều người cùng bị thương nặng với tổng tỷ lệ tổn hại cơ thể lên đến 201% trở lên thì đây là dấu hiệu cho thấy mức độ nguy hiểm đặc biệt của tội phạm. Hậu quả này không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của nhiều người trong thời gian dài mà còn gây hệ lụy lớn về kinh tế, xã hội và tâm lý cộng đồng. Do đó, khung hình phạt cao nhất được áp dụng để trừng trị và ngăn chặn loại hành vi này.
- Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên: Trường hợp này thể hiện hậu quả đặc biệt nghiêm trọng về mặt kinh tế. Khi thiệt hại về tài sản ở mức từ 1,5 tỷ đồng trở lên, tác động tiêu cực không chỉ dừng lại ở tổ chức, cá nhân bị hại mà còn có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế và trật tự an toàn xã hội. Đây là mức thiệt hại lớn cho thấy hành vi phạm tội có sức tàn phá nặng nề, do đó hình phạt nghiêm khắc nhất được áp dụng là hoàn toàn phù hợp.
5. Phân biệt với Tội vi phạm quy định về quản lý chất cháy, chất độc:
Tiêu chí | Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc Điều 311 Bộ luật Hình sự 2015 | Tội vi phạm quy định về quản lý chất cháy, chất độc Điều 312 Bộ luật Hình sự 2015 |
Khách thể bị xâm hại | Trật tự an toàn xã hội, chế độ quản lý Nhà nước về các chất cháy, chất độc khi có hành vi trái phép, bất hợp pháp. | Trật tự quản lý Nhà nước trong quản lý, bảo quản, sử dụng, vận chuyển, trang bị, xử lý các chất cháy, chất độc. |
Tính chất hành vi | Hành vi chủ động, trực tiếp: sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép. Đây là hành vi hoàn toàn ngoài vòng kiểm soát của Nhà nước. | Hành vi vi phạm quy định trong quản lý: sản xuất, sử dụng, vận chuyển… nhưng có giấy phép, trách nhiệm quản lý, song thực hiện sai quy định, dẫn đến hậu quả. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Khung 4: Phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. | Khung 1: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm. | Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
6. Bản án điển hình của Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc:
- Tên bản án:
Bản án về tội tàng trữ, sử dụng trái phép chất độc số 36/2024/HS-ST ngày 07/03/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai.
- Nội dung vụ án:
Phạm Hồng P là người đã 03 lần bị kết án về tội: “Trộm cắp tài sản”, 01 lần bị kết án về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và đều đã được xoá án tích. P khai: Chiều ngày 09-5-2023, tại quán vỉa hè trước số nhà 295 đường Lê Duẩn, tổ 04 phường L1, thành P, tỉnh Gia Lai, P gặp và làm quen với 01 đối tượng nam thanh niên (chưa xác định được nhân thân, địa chỉ). Qua nói chuyện, P biết đối tượng nam thanh niên trên có bán thuốc làm bả chó, nên đã mua 02 cục thuốc với giá 100.000 đồng, mục đích làm bả để bắt trộm chó.
Rạng sáng ngày 10-5-2023, P lấy 02 cục thuốc bả chó trộn với pa-tê, cho vào túi ni-lông, rồi điều khiển xe mô tô 76Z1-4xxx đi dạo đến xã P2, thành phố P, tỉnh Gia Lai để tìm cơ hội bắt trộm chó. Khi đi đến làng Thung Dor, xã P2, thành phố Pleiku P nhìn thấy có 02 con chó đang đứng ngoài đường, nên ném 01 cục pa-tê trộn thuốc bả để 02 con chó ăn. Sau khi 02 con chó ăn pa-tê trộn thuốc bả do P ném, thì đều bị trúng độc nằm ở lề đường; trong đó có 01 con chó đã bị chết. Lúc này, khoảng 05 giờ 50 phút cùng ngày, khi P đang nhặt 02 con chó cho vào bao ni-lông mang theo sẵn, thì bị ông H phát hiện hô hoán; đây là chó của ông H (sinh năm 1981, trú làng Thung Dor, xã P2, thành phố P, tỉnh Gia Lai); P bỏ chạy được một đoạn, thì bị người dân và Công an xã An Phú, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai bắt giữ.
Hành vi tàng trữ, sử dụng chất độc loại Natri xyanua làm bả để bắt trộm chó của người khác do bị cáo Phạm Hồng P thực hiện như nêu trên là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về chất độc, xâm phạm an toàn công cộng, đã phạm vào tội: “Tàng trữ, sử dụng trái phép chất độc” được quy định tại khoản 1 Điều 311 Bộ luật Hình sự 2015. Do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku đã truy tố bị cáo Phạm Hồng Phúc là có căn cứ.
- Quyết định của Tòa án:
+ Tuyên bố: Bị cáo Phạm Hồng P phạm tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép chất độc”.
+ Xử phạt: Bị cáo Phạm Hồng P 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.
THAM KHẢO THÊM:
- Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao, công cụ hỗ trợ và các vũ khí khác có tính năng tác dụng tương tự
- Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách
- Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vũ khí quân sự