Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm là hành vi đặc biệt nguy hiểm, trực tiếp đe dọa sức khỏe, tính mạng con người và gây bất ổn cho thị trường. Việc quy định tội danh này tại Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015 thể hiện quyết tâm của Nhà nước trong bảo đảm an toàn thực phẩm, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và giữ gìn trật tự quản lý kinh tế.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát về Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm:
- 1.1 1.1. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm là gì?
- 1.2 1.2. Ý nghĩa của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm trong pháp luật hình sự:
- 1.3 1.3. Cơ sở pháp lý của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm:
- 2 2. Cấu thành Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm:
- 3 3. Khung hình phạt Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm:
- 4 4. Các tình tiết định khung tăng nặng của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm:
- 5 5. Phân biệt với Tội sản xuất, buôn bán hàng giả:
- 6 6. Bản án điển hình của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm:
1. Khái quát về Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm:
1.1. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm là gì?
Trong những năm gần đây, tình hình sản xuất và buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm và phụ gia thực phẩm tại Việt Nam ngày càng diễn biến phức tạp hơn. Nhiều vụ việc được cơ quan chức năng phát hiện với quy mô ngày càng lớn và sử dụng nhiều thủ đoạn ngày càng tinh vi. Từ gạo giả, rượu pha hóa chất… cho đến các loại phụ gia thực phẩm không rõ nguồn gốc, tất cả đều trực tiếp đe dọa sức khỏe và tính mạng người tiêu dùng.
Có thể đưa ra khái niệm về Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm như sau:
“Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm là hành vi của cá nhân hoặc pháp nhân thương mại sản xuất hoặc đưa vào lưu thông các loại hàng hóa không bảo đảm tính thật, không đúng tiêu chuẩn, không có giá trị sử dụng hoặc công dụng như hàng thật trong nhóm lương thực, thực phẩm và phụ gia thực phẩm. Đây là loại hàng hóa liên quan trực tiếp đến nhu cầu thiết yếu và sức khỏe của con người. Vì ậy hành vi này không chỉ xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước trong lĩnh vực sản xuất – kinh doanh mà còn đe dọa trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe cộng đồng.”
1.2. Ý nghĩa của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm trong pháp luật hình sự:
- Thứ nhất, bảo vệ sức khỏe và tính mạng con người: Thực phẩm và phụ gia thực phẩm là những mặt hàng thiết yếu đuộc sử dụng trong tiêu dùng hàng ngày. Việc nghiêm trị hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả góp phần phòng ngừa và ngăn chặn các nguy cơ gây ngộ độc, bệnh tật đối với người tiêu dùng.
- Thứ hai, bảo đảm an toàn thực phẩm và lợi ích công cộng: Quy định này khẳng định sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước trong việc xây dựng môi trường thực phẩm an toàn và lành mạnh cho toàn xã hội.
- Thứ ba, bảo vệ nền kinh tế và doanh nghiệp chân chính: Việc sản xuất, buôn bán thực phẩm giả không chỉ ảnh hưởng đến người tiêu dùng mà còn gây thiệt hại nặng nề cho các doanh nghiệp làm ăn hợp pháp. Xử lý nghiêm minh tội phạm này góp phần tạo “sân chơi” công bằng và lành mạnh cho thị trường.
- Thứ tư, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật: Việc luật hóa và áp dụng các chế tài hình sự nghiêm khắc mang tính răn đe, phòng ngừa chung đối với tất cả các chủ thể trong xã hội và góp phần nhắc nhở các cá nhân, tổ chức kinh doanh phải tuân thủ quy định pháp luật, bảo đảm đạo đức kinh doanh trong quá trình sản xuất, kinh doanh và buôn bán.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm:
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm hiện nay đang được quy định tại Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
đ) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Buôn bán qua biên giới;
g) Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 150.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
h) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
i) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
k) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:
a) Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng;
c) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng;
d) Làm chết người;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Thu lợi bất chính 1.500.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên;
c) Làm chết 02 người trở lên;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 122% trở lên.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
6. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:
a) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng;
b) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, e, g, h, i và k khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 6.000.000.000 đồng;
c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ 6.000.000.000 đồng đến 9.000.000.000 đồng;
d) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này, thì bị phạt tiền từ 9.000.000.000 đồng đến 18.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm;
đ) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn;
e) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.”
2. Cấu thành Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm:
2.1. Khách thể:
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm xâm phạm trực tiếp đến: Trật tự quản lí kinh tế; cụ thể là trật tự của nền sản xuất hàng hóa, làm mất sự ổn định của thị trường, xâm hại lợi ích và sức khỏa, tính mạng của người tiêu dùng.
Đối tượng tác động của tội phạm này là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm. Cụ thể:
- Lương thực: Là các loại sản phẩm nông nghiệp thiết yếu, chủ yếu dùng để đáp ứng nhu cầu ăn uống hàng ngày của con người, cung cấp năng lượng chính cho cơ thể. Lương thực đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế bởi lương thực không chỉ là nhu cầu cơ bản của con người trong việc tăng cường sức khỏe và hạnh phúc, mà còn có ý nghĩa cân bằng hệ sinh thái tự nhiên, đặc biệt là trong nền kinh tế tuần hoàn, khi việc giảm thiểu các mối nguy môi trường và cải thiện tài nguyên thiên nhiên từ sản xuất lương thực ngày càng được quan tâm.
- Thực phẩm: Là sản phẩm mà con người ăn, uống ở dạng tươi sống hoặc đã qua sơ chế, chế biến, bảo quản. Thực phẩm không bao gồm mỹ phẩm, thuốc lá và các chất sử dụng như dược phẩm (khoản 20 Điều 2 Luật An toàn thực phẩm 2010).
- Phụ gia thực phẩm: Là chất được chủ định đưa vào thực phẩm trong quá trình sản xuất, có hoặc không có giá trị dinh dưỡng, nhằm giữ hoặc cải thiện đặc tính của thực phẩm (khoản 13 Điều 2 Luật An toàn thực phẩm 2010).
Hàng giả hiện nay đang được quy định tại khoản 7 Điều 3 Nghị định 98/2020/NĐ-CP. Trong đó, hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm được hiểu là:
- Các loại sản phẩm mà con người ăn, uống hoặc các chất chủ định đưa vào thực phẩm được sản xuất và buôn bán trái pháp luật, không có giá trị sử dụng và công dụng;
- Có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với nguồn gốc bản chất tự nhiên hoặc có một trong các chỉ tiêu chất lượng chỉ đạt mức từ 70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng hoặc quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa, gây thiệt hại cho lợi ích và sức khỏe của người tiêu dùng.
2.2. Mặt khách quan:
a. Hành vi của tội phạm:
Hành vi khách quan của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm được thể hiện thông qua 02 hành vi chính là: “Hành vi sản xuất” hoặc “hành vi buôn bán” hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm. Trong đó:
- Sản xuất hàng giả: Là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả hoạt động chế tạo, chế bản, in ấn, gia công, đặt hàng, sơ chế, chế biến, chiết xuất, tái chế, lắp ráp, pha trộn, san chia, sang chiết, nạp, đóng gói và hoạt động khác làm ra hàng giả.
- Buôn bán hàng giả: Là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động chào hàng, bày bán, giới thiệu, quảng cáo, khuyến mại, lưu trữ, bảo quản, vận chuyển, bán buôn, bán lẻ, xuất khẩu và hoạt động khác đưa hàng giả vào lưu thông.
Dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này là đối tượng hàng giả phải là lương thực, thực phẩm hoặc phụ gia thực phẩm.
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm được coi là hoàn thành khi có hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm xảy ra.
b. Hậu quả của tội phạm:
Hậu quả không phải dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm. Hành vi vi phạm có thể gây ra nhiều hậu quả trên thực tế, bao gồm những thiệt hại về kinh tế và xã hội như:
- Đối với xã hội: Gây ra thiệt hại lớn đối với sức khỏe người dân trong xã hội khi lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm bị làm giả và người dân tiêu thụ những sản phẩm giả này hằng ngày. Tội phạm cũng gây mất cân bằng giữa hàng hóa thật và hàng hóa làm giả khi hàng hóa được làm giả giống với hàng hóa thật nhưng lại kém chất lượng hơn và rẻ hơn, đánh vào tâm lý ham rẻ của người mua hàng.
- Đối với kinh tế: Xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước khiến Nhà nước, quyền sở hữu công nghiệp của các doanh nghiệp, gây thiệt hại đến lợi ích vật chất, uy tín doanh nghiệp có sản phẩm, hàng hóa là thực phẩm hoặc lương thực bị làm giả.
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm là người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên (theo khoản 1 Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015).
Pháp nhân thương mại cũng là chủ thể của tội phạm này.
2.4. Mặt chủ quan:
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm được thực hiện do lỗi cố ý (trực tiếp).
Người phạm tội nhận thức được hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội và lương trước được hậu quả do hành vi này có thể xảy ra và mong muốn hậu quả xảy ra.
Người phạm tội có mục đích là thu lợi bất chính với động cơ vụ lợi. Tuy nhiên động cơ và mục đích không phải dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của tội danh này.
3. Khung hình phạt Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm:
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm theo Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015 quy định khung hình phạt cho 02 chủ thể: cá nhân và pháp nhân thương mại (khoản 6).
3.1. Khung hình phạt đối với cá nhân phạm tội:
- Khung 1: Phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.
- Khung 4: Phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
3.2. Khung hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội:
- Khung 1: Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015 thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng.
- Khung 2: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, e, g, h, i và k khoản 2 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015 thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 6.000.000.000 đồng.
- Khung 3: Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015 thì bị phạt tiền từ 6.000.000.000 đồng đến 9.000.000.000 đồng.
- Khung 4: Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015 thì bị phạt tiền từ 9.000.000.000 đồng đến 18.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm.
- Khung 5: Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật Hình sự 2015 thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.
- Hình phạt bổ sung: Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.
4. Các tình tiết định khung tăng nặng của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm được quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
4.1. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015:
- Có tổ chức theo điểm a khoản 2 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015:
Phạm tội có tổ chức là trường hợp nhiều người câu kết chặt chẽ với nhau và phân công nhiệm vụ cụ thể để cùng thực hiện việc sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm. Đây là tình tiết thể hiện tính nguy hiểm đặc biệt vì hành vi không mang tính tự phát mà được chuẩn bị bài bản, có sự phối hợp chặt chữ giữa nhiều chủ thể nhằm che giấu hành vi và phân chia lợi ích rõ ràng. Hậu quả tiềm ẩn của loại tội phạm này rất lớn, có thể gây ảnh hưởng diện rộng đến sức khỏe cộng đồng. Vì thế pháp luật buộc phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc hơn trong trường hợp này.
- Có tính chất chuyên nghiệp theo điểm b khoản 2 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015:
Trường hợp này áp dụng khi người phạm tội coi việc sản xuất, buôn bán hàng giả là nghề kiếm sống thường xuyên, thực hiện nhiều lần và có quy mô nhất định. Tính chất chuyên nghiệp cho thấy người phạm tội đã biến hành vi nguy hiểm thành nguồn thu nhập chính, từ đó gia tăng nguy cơ lan rộng hàng giả ra thị trường, làm mất niềm tin của người tiêu dùng và đe dọa an toàn thực phẩm. Vì vậy, đây là một trong những tình tiết định khung tăng nặng của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm để xử lý thích đáng hành vi vi phạm.
- Tái phạm nguy hiểm theo điểm c khoản 2 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015:
Tái phạm nguy hiểm là trường hợp người phạm tội đã từng bị kết án về tội này hoặc tội tương tự, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục vi phạm. Điều này chứng tỏ người phạm tội coi thường pháp luật, có thái độ chống đối xã hội và tái diễn hành vi sai phạm bất chấp mặc dù trước đó đã từng bị xử lý. Đối với loại tội phạm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng con người, việc tái phạm nguy hiểm cho thấy ý thức cải tạo rất thấp của cá nhân. Vì thế cần có chế tài nghiêm khắc hơn để răn đe. Do đó pháp luật áp dụng khung hình phạt cao hơn trong trường hợp này.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn theo điểm d khoản 2 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015:
Trường hợp người phạm tội dùng chính chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hoặc tổ chức của mình để thực hiện hoặc che giấu hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả. Đây là hành vi đặc biệt nguy hiểm bởi người phạm tội đã lợi dụng sự tin cậy của xã hội, của cơ quan, tổ chức để mưu lợi bất chính; đồng thời gây mất uy tín cho cơ quan Nhà nước. Điều này đòi hỏi phải xử lý nặng hơn so với các trường hợp thông thường khác nhằm bảo đảm sự liêm chính trong hoạt động công vụ và ngăn ngừa việc lợi dụng quyền lực để phạm tội.
- Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức theo điểm đ khoản 2 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015:
Khác với lợi dụng chức vụ, quyền hạn, tình tiết này xảy ra khi cá nhân sử dụng uy tín, danh nghĩa của một cơ quan, tổ chức (như gắn nhãn giả cơ quan kiểm định, viện nghiên cứu, doanh nghiệp lớn…) để hợp thức hóa việc sản xuất và buôn bán hàng giả. Hành vi này làm người tiêu dùng nhầm lẫn, tin tưởng rằng sản phẩm an toàn; từ đó gây hậu quả nặng nề cho sức khỏe cộng đồng. Pháp luật quy định khung hình phạt tăng nặng để bảo vệ uy tín cơ quan, tổ chức và quyền lợi người tiêu dùng.
- Buôn bán qua biên giới theo điểm e khoản 2 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015:
Hành vi buôn bán hàng giả qua biên giới làm tăng tính chất nguy hiểm vì phạm vi tác động không chỉ trong nước mà còn ảnh hưởng đến thương mại quốc tế, gây mất uy tín hàng hóa Việt Nam trên thị trường nước ngoài. Điều này có thể dẫn đến tranh chấp thương mại giữa các quốcgia, làm giảm khả năng cạnh tranh và ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế quốc gia. Vì vậy, pháp luật coi đây là tình tiết đặc biệt nghiêm trọng cần bị xử lý ở khung hình phạt nghiêm khắc hơn.
- Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 150.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng theo điểm g khoản 2 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015:
Trường hợp này phản ánh mức độ nguy hiểm về quy mô tài sản. Giá trị hàng giả càng lớn thì khả năng lưu hành trên thị trường càng rộng và hậu quả tiềm ẩn với sức khỏe cộng đồng càng cao. Vì vậy, pháp luật lấy ngưỡng giá trị từ 150 triệu đồng trở lên để xác định mức độ hậu quả của hành vi. Do đó cần áp dụng khung hình phạt nghiêm khắc hơn theo khoản 2 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015.
- Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng theo điểm h khoản 2 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015:
Tình tiết này cho thấy mục đích trục lợi của người phạm tội. Lợi nhuận bất chính càng lớn thì động cơ phạm tội càng mạnh, đồng thời thể hiện mức độ phổ biến của hàng giả đã lưu hành. Việc định ngưỡng từ 100 triệu đồng trở lên khẳng định hành vi đã gây hậu quả kinh tế nghiêm trọng, cần tăng nặng hình phạt để ngăn chặn việc trục lợi phi pháp. Vì thế đây là một trong những tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015 về Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% theo điểm i khoản 2 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015:
Khi hàng giả được tiêu thụ và gây ra hậu quả trực tiếp cho sức khỏe con người, đặc biệt làm một cá nhân bị thương tật từ 31% đến 60% thì mức độ nguy hiểm của hành vi không chỉ dừng lại ở xâm phạm quan hệ kinh tế mà còn trực tiếp xâm hại quyền con người. Đây là tình tiết quan trọng cho thấy hậu quả thực tế đã xảy ra và cần xử lý nghiêm khắc hơn để đảm bảo tính răn đe cho xã hội.
- Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng theo điểm k khoản 2 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015:
Ngoài tác động đến sức khỏe, việc lưu hành hàng giả có thể gây thiệt hại lớn về tài sản như làm hỏng nguyên liệu, máy móc.. từ đó gây thiệt hại dây chuyền sản xuất hoặc làm mất giá trị hàng thật. Ngưỡng thiệt hại từ 100 triệu đồng trở lên được xem là mức đáng kể, thể hiện hậu quả kinh tế rõ rệt. Vì thế cần áp dụng khung hình phạt cao hơn của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm.
4.2. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 3 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015:
- Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá 500.000.000 đồng trở lên theo điểm a khoản 3 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015:
Khi số lượng hàng giả bị phát hiện có giá trị tương đương từ 500 triệu đồng trở lên thì quy mô và mức độ nguy hiểm của hành vi đã vượt xa mức thông thường. Giá trị hàng hóa càng lớn thì khả năng lưu hành, phân tán trên thị trường càng rộng, kéo theo đó là nguy cơ khiến nhiều người tiêu dùng bị ảnh hưởng. Đây là dấu hiệu cho thấy hành vi phạm tội có tổ chức, có sự chuẩn bị lớn và gây hậu quả nghiêm trọng cho trật tự quản lý kinh tế. Vì thế pháp luật buộc phải xử lý ở khung hình phạt cao hơn của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm.
- Thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng theo điểm b khoản 3 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015:
Trường hợp người phạm tội thu lợi bất chính ở mức từ 500 triệu đến dưới 1.5 tỷ đồng cho thấy động cơ vụ lợi rất lớn. Đây không còn là hành vi trục lợi thông thường mà thể hiện sự coi thường pháp luật, lấy sức khỏe và tính mạng cộng đồng làm phương tiện kiếm tiền bất chính. Hậu quả gián tiếp là gây mất niềm tin của người tiêu dùng và thiệt hại kinh tế lan rộng. Vì vậy, pháp luật quy định tình tiết này là một trong những tình tiết tăng nặng khung hình phạt theo khoản 3 Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm nhằm tăng cường răn đe đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả có động cơ lợi nhuận đặc biệt lớn.
- Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng theo điểm c khoản 3 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015:
Hhành vi sản xuất, buôn bán hàng giả gây thiệt hại tài sản trong khoảng từ 500 triệu đến dưới 1.5 tỷ đồng ch thấy mức thiệt hại kinh tế đặc biệt nghiêm trọng. Không chỉ gây mất mát cho cá nhân, doanh nghiệp mà còn có thể ảnh hưởng đến cả ngành sản xuất, thị trường và nền kinh tế quốc dân. Đây là lý do pháp luật nâng mức hình phạt trong trường hợp này nhằm bảo đảm tính nghiêm minh và công bằng trong quá trình xử lý hành vi phạm tội.
- Làm chết người theo điểm d khoản 3 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015:
Nếu người tiêu dùng sử dụng phải lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm giả mà dẫn đến chết người thì đây được xem là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm trực tiếp đến quyền sống – quyền cơ bản nhất của con người được ghi nhận trong Hiến pháp 2013. Trường hợp này cho thấy tính chất rất nguy hiểm của hành vi vì mục đích trục lợi mà bất chấp sức khỏe và tính mạng người dân. Vì thế cần áp dụng khung hình phạt cao hơn để xử lý.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên theo điểm đ khoản 3 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015:
Hành vi phạm tội dẫn đến việc một cá nhân bị tổn thương sức khỏe với tỷ lệ từ 61% trở lên phản ánh hậu quả nặng nề, ảnh hưởng lâu dài đến khả năng lao động và chất lượng sống của nạn nhân. Hậu quả này không thể khắc phục hoàn toàn nên được xem là dấu hiệu đặc biệt nghiêm trọng, buộc pháp luật phải áp dụng mức hình phạt cao hơn để đảm bảo công bằng và răn đe.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121% theo điểm e khoản 3 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015:
Trường hợp nhiều người cùng lúc bị ảnh hưởng sức khỏe do hàng giả gây ra với tổng tỷ lệ thương tật cao (từ 61% đến 121%) thì được xác định là hậu quả rất nghiêm trọng. Điều này làm tăng mức độ nguy hiểm cho xã hội và cho thấy tính chất nghiêm trọng của tội phạm. Vì vậy, pháp luật xác định tình tiết là một tình tiết tăng nặng khung hình phạt của từ 61% đến 121% để xử lý đúng mức độ hậu quả do hành vi vi phamm gây ra trên thực tế.
4.3. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 4 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015:
- Thu lợi bất chính 1.500.000.000 đồng trở lên theo điểm a khoản 4 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015:
Đây là tình tiết phản ánh động cơ lợi nhuận vô cùng lớn của hành vi phạm tội. Khi thu lợi bất chính từ 1.5 tỷ đồng trở lên, chứng tỏ phạm vi buôn bán hàng giả rất rộng, số lượng hàng hóa lưu hành nhiều, ảnh hưởng lớn đến thị trường và sức khỏe cộng đồng. Pháp luật quy định hình phạt ở mức đặc biệt nghiêm khắc đối với trường hợp này để ngăn chặn các hành vi trục lợi có quy mô lớn.
- Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên theo điểm b khoản 4 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015:
Thiệt hại tài sản ở mức từ 1.5 tỷ đồng trở lên cho thấy hậu quả kinh tế đặc biệt lớn. Điều này có thể ảnh hưởng trực tiếp đến doanh nghiệp, chuỗi cung ứng, gây thiệt hại cho nền kinh tế và làm mất ổn định thị trường. Đây là một trong những dấu hiệu hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nên pháp luật buộc phải xử lý bằng khung hình phạt nặng nhất của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm.
- Làm chết 02 người trở lên theo điểm c khoản 4 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015:
Trường hợp này cho thấy hậu quả thảm khốc trực tiếp từ việc sử dụng hàng giả, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền sống của nhiều người. Khi có từ 02 người trở lên tử vong thì mức độ nguy hiểm đã đạt đến đặc biệt nghiêm trọng. Vì vậy, pháp luật quy định mức hình phạt cao nhất đối với trường hợp này (có thể đến tù chung thân) để đảm bảo răn đe và phòng ngừa chung.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 122% trở lên theo điểm d khoản 4 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015:
Nhiều người cùng bị tổn hại sức khỏe với tổng tỷ lệ rất cao (từ 122% trở lên), điều này phản ánh hậu quả đặc biệt lớn đối với cộng đồng. Đây là tình tiết cho thấy tính chất tội phạm không chỉ ảnh hưởng đơn lẻ mà đã gây ra tổn hại đến tập thể, từ đó làm gia tăng gánh nặng y tế và xã hội. Vì vậy, pháp luật xếp tình tiết này vào khung hình phạt cao nhất của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm theo khoản 4 để trừng trị nghiêm khắc hành vi vi phạm.
5. Phân biệt với Tội sản xuất, buôn bán hàng giả:
Tiêu chí | Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm (Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015) |
Khách thể | Xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh hàng hóa nói chung. | Xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và trực tiếp xâm phạm sức khỏe, tính mạng người tiêu dùng thông qua hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm. |
Hành vi phạm tội | Sản xuất, buôn bán các loại hàng giả (trừ các trường hợp đặc thù đã quy định ở Điều 193, 194 và 195 Bộ luật Hình sự 2015). | Sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm – nhóm hàng ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, an toàn cộng đồng. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. | Khung 1: Phạt tù từ 02 năm đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Khung 3: Phạt tù từ 10 năm đến 15 năm. Khung 4: Phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. |
Hình phạt bổ sung (cá nhân) | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. |
Trách nhiệm pháp nhân thương mại | Khung 1: Phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng. Khung 2: Phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 6.000.000.000 đồng. Khung 3: Phạt tiền từ 6.000.000.000 đồng đến 9.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 4: Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật Hình sự 2015 thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Hình phạt bổ sung: Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm. | Khung 1: Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015 thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng. Khung 2: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, e, g, h, i và k khoản 2 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015 thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 6.000.000.000 đồng. Khung 3: Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015 thì bị phạt tiền từ 6.000.000.000 đồng đến 9.000.000.000 đồng. Khung 4: Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 193 Bộ luật Hình sự 2015 thì bị phạt tiền từ 9.000.000.000 đồng đến 18.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 5: Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật Hình sự 2015 thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Hình phạt bổ sung: Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm. |
6. Bản án điển hình của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm:
- Tên bản án:
Bản án về tội buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm (mì chính giả) số 84/2023/HS-ST ngày 16/11/2023 của Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Nội dung vụ án:
Ngày 20/12/2022, tổ công tác Công an huyện Yên Lạc kiểm tra cơ sở kinh doanh tạp hóa của Nguyễn Thị T tại chợ L thuộc tổ dân phố T, thị trấn T, huyện Y đã phát hiện T bày bán 16 (Mười sáu) gói mì chính (bột ngọt) các loại, trong đó có 01 gói mì chính nhãn hiệu AJINOMOTO có dòng chữ Bột ngọt Nhật Bản duy nhất loại 140g/gói, 04 gói loại 400g/gói, 09 gói loại 01kg/gói và 02 gói mì chính nhãn hiệu MIWON loại 02kg/gói tất cả đều là hàng giả. Trị giá hàng giả là 978.000đ (Chín trăm bảy mươi tám nghìn đồng).
Với hành vi trên của Nguyễn Thị T đã có đủ cơ sở để khẳng định: Bị cáo đã phạm vào tội: “Buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 193 của Bộ luật hình sự năm 2015.
- Quyết định của Tòa án:
+ Tuyên bố: Nguyễn Thị T phạm tội “Buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm”.
+ Xử phạt: Nguyễn Thị T 02 (Hai) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 04 (Bốn) năm. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
+ Giao Nguyễn Thị T cho Ủy ban nhân dân thị trấn T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
THAM KHẢO THÊM: