Tội ra quyết định trái pháp luật được quy định tại Điều 371 Bộ luật Hình sự 2015 nhằm xử lý hành vi của người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hoặc thi hành án đã cố ý ban hành quyết định trái pháp luật. Đây là tội phạm xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan tư pháp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, kỷ cương pháp luật và niềm tin của nhân dân vào công lý.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát chung về Tội ra quyết định trái pháp luật:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội ra quyết định trái pháp luật:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội ra quyết định trái pháp luật:
- 4 4. Các tình tiết định khung tăng nặng theo Điều 371 Bộ luật Hình sự 2015:
- 5 5. Phân biệt Tội ra quyết định trái pháp luật với Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội:
1. Khái quát chung về Tội ra quyết định trái pháp luật:
1.1. Khái niệm:
Trong hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam, việc bảo đảm hoạt động tố tụng và thi hành án diễn ra đúng pháp luật là một yếu tố then chốt để duy trì trật tự, công bằng và hiệu quả của nền tư pháp. Tuy nhiên, trong thực tiễn vẫn tồn tại những trường hợp người có thẩm quyền ra quyết định trái pháp luật, gây ra hậu quả nghiêm trọng cho cá nhân, tổ chức và Nhà nước. Tội ra quyết định trái pháp luật được quy định nhằm ngăn chặn và xử lý nghiêm minh hành vi này, bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan; đồng thời củng cố niềm tin của xã hội vào hệ thống tư pháp. Đây là một tội phạm đặc thù, phản ánh trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của người thực thi công vụ trong lĩnh vực tố tụng và thi hành án.
Theo đó: ”Tội ra quyết định trái pháp luật là hành vi phạm tội do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hoặc thi hành án thực hiện khi ban hành các quyết định mà họ biết rõ là không phù hợp với quy định của pháp luật, gây thiệt hại về tài sản hoặc ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân. Hành vi này làm sai lệch quy trình tố tụng, phá vỡ sự công bằng và khách quan của quá trình xét xử, thi hành án; từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự công bằng và hiệu quả của hệ thống tư pháp.”
1.2. Ý nghĩa:
- Thứ nhất: Bảo vệ hoạt động tố tụng và thi hành án đúng pháp luật. Việc quy định Tội ra quyết định trái pháp luật nhằm ngăn chặn hành vi ban hành quyết định trái pháp luật, bảo đảm rằng mọi quyết định trong hoạt động tố tụng và thi hành án đều phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật, góp phần duy trì tính khách quan, công bằng trong quá trình xét xử và thi hành án.
- Thứ hai: Đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật và bảo vệ quyền con người. Tội ra quyết định trái pháp luật thể hiện sự nghiêm khắc đối với những người có thẩm quyền lạm dụng quyền hạn hoặc thiếu trách nhiệm trong công vụ, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân; đồng thời giữ vững nguyên tắc pháp quyền.
- Thứ ba: Ngăn ngừa và hạn chế sai phạm trong hoạt động tư pháp. Việc xử lý nghiêm hành vi ra quyết định trái pháp luật giúp răn đe, phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng và thi hành án, từ đó nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư pháp.
- Thứ tư: Củng cố niềm tin của xã hội vào công lý và hệ thống pháp luật. Quy định về Tội ra quyết định trái pháp luật góp phần tạo dựng môi trường pháp lý minh bạch, công bằng, tăng cường sự tín nhiệm của nhân dân đối với các cơ quan tư pháp, bảo vệ trật tự, kỷ cương xã hội và ổn định an ninh quốc gia.
1.3. Cơ sở pháp lý:
Tội ra quyết định trái pháp luật hiện nay đang được quy định tại Điều 371 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
”1. Người nào có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án ra quyết định mà mình biết rõ là trái pháp luật gây thiệt hại về tài sản từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 368, 369, 370, 377 và 378 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu;
d) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án, người phải chấp hành án, người bị hại, đương sự mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
đ) Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:
a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án, người phải chấp hành án, người bị hại, đương sự mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Dẫn đến người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án, người phải chấp hành án, người bị hại, đương sự tự sát;
c) Gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội ra quyết định trái pháp luật:
2.1. Khách thể:
Tội ra quyết định trái pháp luật xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực tư pháp; xâm phạm trực tiếp đến hoạt động xét xử của Tòa án; xâm phạm đến uy tín của Tòa án trong hoạt động bảo vệ công lý, lẽ phải.
Đồng thời Tội ra quyết định trái pháp luật còn xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng; quyền lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân.
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi khách quan của Tội ra quyết định trái pháp luật là hành vi: Ban hành quyết định trong hoạt động tố tụng hoặc thi hành án mà người thực hiện biết rõ là trái với quy định của pháp luật. Đối tượng của hành vi phạm tội là các loại quyết định do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hoặc thi hành án ban hành theo quy định của pháp luật tố tụng.
Cần lưu ý rằng: Những quyết định đã được xác định rõ là đối tượng của các tội danh khác quy định tại các Điều 368, 369, 370, 377 và 378 Bộ luật Hình sự 2015 thì không thuộc phạm vi điều chỉnh của tội danh này. Một quyết định bị coi là trái pháp luật khi nội dung của nó không phù hợp với thực tế khách quan của vụ án, vụ việc và trái với quy định của pháp luật hiện hành.
Hậu quả của hành vi phạm tội được xác định theo hai hướng:
- Thiệt hại về tài sản từ 50 triệu đồng trở lên;
- Hoặc gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức hoặc cá nhân.
Như vậy, hậu quả là dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội phạm. Trong đó: thiệt hại vật chất được xác định theo một ngưỡng tối thiểu (50 triệu đồng) còn thiệt hại phi vật chất được đánh giá dựa trên mức độ ảnh hưởng tiêu cực đến quyền và lợi ích hợp pháp được pháp luật bảo vệ.
Điểm quan trọng là phải xác lập được mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa hành vi ra quyết định trái pháp luật và hậu quả đã xảy ra. Tức là hành vi ban hành quyết định sai trái phải là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại cụ thể trong thực tế.
2.3. Chủ thể:
Điều 371 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Người nào có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án ra quyết định mà mình biết rõ là trái pháp luật gây thiệt hại…” thể hiện chủ thể của Tội ra quyết định trái pháp luật là chủ thể đặc biệt, là người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hoặc hoạt động thi hành án. Đó là người có quyền ra quyết định trong điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
Đồng thời, chủ thể của tội danh này cần có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ và đáp ứng độ tuổi luật định (đủ 16 tuổi trở lên).
2.4. Mặt chủ quan:
Tội ra quyết định trái pháp luật được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Điều 371 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định “biết rõ là trái pháp luật”, tức là người phạm tội biết rõ quyết định mà mình ban hành là trái pháp luật thì mới phạm tội.
Trong trường hợp ra quyết định vì lý do khách quan hoặc do trình độ chuyên môn nghiệp vụ hạn chế mà không biết rõ quyết định là trái luật thì không coi là phạm tội ra quyết định trái pháp luật.
3. Khung hình phạt của Tội ra quyết định trái pháp luật:
Tội ra quyết định trái pháp luật theo Điều 371 Bộ luật Hình sự 2015 gồm những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Các tình tiết định khung tăng nặng theo Điều 371 Bộ luật Hình sự 2015:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội ra quyết định trái pháp luật được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 371 Bộ luật Hình sự 2015:
4.1. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 371:
- Có tổ chức: Là tình tiết tăng nặng vì thể hiện sự câu kết, phân công vai trò rõ ràng giữa các cá nhân nhằm mục đích phạm tội. Hành vi này không còn mang tính cá nhân đơn lẻ mà là kết quả của sự chuẩn bị kỹ lưỡng, có tính hệ thống và phối hợp; do đó mức độ nguy hiểm cao hơn và cần xử lý nghiêm khắc để răn đe và ngăn ngừa các hành vi tương tự trong bộ máy tư pháp.
- Phạm tội 02 lần trở lên: Người phạm tội ra quyết định trái pháp luật từ 02 lần trở lên thể hiện sự cố ý và tái phạm trong hành vi lạm quyền. Việc tái diễn hành vi chứng minh người phạm tội không có ý thức cải sửa, đồng thời làm gia tăng hậu quả tiêu cực đối với tổ chức, cá nhân hoặc Nhà nước. Vì vậy, đây là tình tiết tăng nặng cần áp dụng hình phạt nghiêm hơn để đảm bảo tính công minh của pháp luật.
- Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu: Hành vi ra quyết định trái pháp luật đối với những người thuộc nhóm yếu thế như người chưa thành niên, phụ nữ mang thai, người già yếu thể hiện sự vô nhân đạo, thiếu trách nhiệm xã hội và pháp lý. Do đó việc xâm phạm quyền, lợi ích của họ được coi là tình tiết tăng nặng nhằm nâng cao trách nhiệm của người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng.
- Gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án, người phải chấp hành án, người bị hại, đương sự mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%: Nếu hậu quả của hành vi ra quyết định trái pháp luật là gây rối loạn tâm thần và hành vi cho người bị tác động với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% thì mức độ xâm hại đến sức khỏe tinh thần của nạn nhân đã ở mức nghiêm trọng. Hậu quả này không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân mà còn kéo theo hệ lụy lâu dài đối với gia đình, xã hội; do đó cần xử lý nghiêm với hình phạt tương xứng.
- Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng: Thiệt hại tài sản ở mức từ 200 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng thể hiện mức độ hậu quả vật chất rõ rệt và nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Dù người phạm tội biết rõ quyết định là trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện, gây tổn thất lớn cho Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân; từ đó làm giảm niềm tin vào cơ quan thực thi pháp luật. Đây là căn cứ để áp dụng hình phạt ở mức cao hơn trong khung hình phạt thứ hai.
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội: Khi hành vi ra quyết định trái pháp luật gây ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh trật tự, an toàn xã hội, nó không chỉ là sự vi phạm về mặt pháp lý mà còn gây bất ổn cho xã hội, ảnh hưởng đến sự tín nhiệm của nhân dân đối với cơ quan tư pháp. Tình tiết này cho thấy phạm tội có hệ lụy sâu rộng; vì vậy cần bị xử lý nghiêm nhằm bảo vệ trật tự, kỷ cương và niềm tin vào pháp luật.
4.2. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 3 Điều 371:
- Gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án, người phải chấp hành án, người bị hại, đương sự mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên: Khi hậu quả mà hành vi gây ra đã vượt ngưỡng 61% tổn thương về tinh thần và hành vi, mức độ nguy hiểm của tội phạm được nâng lên rõ rệt. Tổn thương ở mức độ này thường để lại di chứng nặng nề, có thể là vĩnh viễn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống, sinh hoạt, lao động và tinh thần của nạn nhân. Tình tiết này phản ánh hậu quả đặc biệt nghiêm trọng của hành vi phạm tội, làm căn cứ để áp dụng hình phạt nghiêm trọng hơn, từ 7 đến 12 năm tù.
- Dẫn đến người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án, người phải chấp hành án, người bị hại, đương sự tự sát: Hành vi ra quyết định trái pháp luật nếu dẫn đến việc người bị bắt, bị giam giữ, bị can, bị cáo, người bị hại hoặc đương sự phải tự kết liễu cuộc sống vì bị dồn ép về tâm lý hoặc mất hết niềm tin vào công lý, thì được coi là tình tiết đặc biệt nghiêm trọng. Đây là hậu quả không thể khắc phục, ảnh hưởng sâu rộng đến gia đình, xã hội và hình ảnh ngành tư pháp. Tình tiết này là một trong những yếu tố nghiêm khắc nhất trong định khung hình phạt của điều luật.
- Gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên: Tình tiết này phản ánh hậu quả kinh tế cực kỳ nghiêm trọng do hành vi phạm tội gây ra. Việc một quyết định trái pháp luật gây thiệt hại từ 1 tỷ đồng trở lên cho thấy mức độ thiếu trách nhiệm, chủ ý vi phạm và hậu quả đặc biệt lớn về tài chính, ảnh hưởng đến tổ chức, cá nhân hoặc Nhà nước. Đây là một trong những căn cứ quan trọng để xử lý hình sự ở mức nghiêm khắc nhất đối với loại tội phạm này.
5. Phân biệt Tội ra quyết định trái pháp luật với Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội:
Tiêu chí | Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội (Điều 369 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 371 Bộ luật Hình sự 2015) |
Đối tượng bị xâm phạm | Hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự – một giai đoạn trọng yếu của quá trình tố tụng hình sự. | Trật tự, tính hợp pháp và tính đúng đắn của các quyết định trong hoạt động tố tụng và thi hành án. |
Chủ thể của tội phạm | Chủ thể đặc biệt. Là người có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự (điều tra viên, kiểm sát viên, thủ trưởng cơ quan điều tra, viện trưởng, thẩm phán…). | Chủ thể đặc biệt. Là người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hoặc thi hành án (có thể là điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, chấp hành viên…). |
Hành vi khách quan | Không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người mà mình biết rõ là có tội, tức là cố tình không khởi tố, truy tố hoặc xét xử người phạm tội. | Ra quyết định mà mình biết rõ là trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hoặc thi hành án (ví dụ: quyết định đình chỉ điều tra, tạm giam, miễn hình phạt… trái quy định). |
Mục đích, động cơ phạm tội | Thường xuất phát từ lợi ích cá nhân, tư lợi, bao che, nể nang hoặc bị tác động, chi phối. | Thường do vụ lợi, bao che, dung túng, cẩu thả, lợi dụng chức vụ để can thiệp trái pháp luật vào quá trình tố tụng. |
Khung hình phạt chính | Khung 1: Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 12 năm. | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 12 năm. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
THAM KHẢO THÊM: