Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược được quy định tại Điều 421 Bộ luật Hình sự năm 2015 là một trong những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm trực tiếp đến nền hòa bình, độc lập, chủ quyền và an ninh của các quốc gia cũng như trật tự an ninh quốc tế. Quy định này thể hiện rõ lập trường nhất quán của Nhà nước Việt Nam đồng thời khẳng định chính sách đối ngoại hòa bình, nhân đạo và tôn trọng luật pháp quốc tế của nước ta.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát về Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược:
- 4 4. Tình tiết định khung hình phạt giảm nhẹ theo Điều 421 Bộ luật hình sự:
- 5 5. Phân biệt với Tội chống loài người:
- 6 6. Kiến nghị hoàn thiện đối với Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược:
1. Khái quát về Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược:
1.1. Khái niệm:
Hòa bình là điều kiện tiên quyết cho sự ổn định, phát triển và tồn tại của nhân loại. Trong bối cảnh thế giới vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ xung đột vũ trang, việc khởi xướng hoặc tổ chức chiến tranh xâm lược không chỉ đe dọa đến độc lập, chủ quyền của các quốc gia mà còn gây hậu quả nghiêm trọng cho nền hòa bình và an ninh toàn cầu. Nhằm thể hiện lập trường kiên định của Việt Nam trong việc bảo vệ hòa bình và phản đối mọi hành vi sử dụng vũ lực để xâm lược, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược tại Điều 421. Đây là một trong những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thể hiện rõ chính sách đối ngoại nhân đạo, hòa bình và tôn trọng luật pháp quốc tế của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Có thể đưa ra khái niệm về Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược như sau:
“Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược là hành vi chuẩn bị, chỉ huy hoặc tiến hành chiến tranh xâm lược chống lại một quốc gia khác hoặc tham gia liên minh, cấu kết với lực lượng nước ngoài nhằm gây chiến tranh, xâm phạm nền hòa bình, độc lập và chủ quyền của quốc gia khác, trái với Hiến chương Liên Hợp Quốc và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.”
1.2. Ý nghĩa:
- Thứ nhất: Thể hiện chính sách đối ngoại hòa bình, nhân đạo và trách nhiệm quốc tế của Việt Nam. Việc quy định tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược trong Bộ luật Hình sự 2015 khẳng định Việt Nam kiên quyết phản đối mọi hình thức sử dụng vũ lực, xâm lược lãnh thổ, can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác, phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc, nguyên tắc bình đẳng và tôn trọng chủ quyền quốc gia. Đây là sự thể hiện rõ nét cam kết của Việt Nam trong việc bảo vệ hòa bình, hợp tác hữu nghị và duy trì trật tự an ninh quốc tế.
- Thứ hai: Góp phần ngăn ngừa, răn đe và loại bỏ hành vi đe dọa hòa bình thế giới. Quy định tội danh này trong hệ thống pháp luật hình sự tạo cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với mọi hành vi có nguy cơ gây chiến tranh dù ở quy mô quốc gia hay liên minh quốc tế. Từ đó, răn đe mạnh mẽ các hành vi chuẩn bị, kích động hoặc chỉ huy chiến tranh xâm lược, bảo đảm mọi hành vi phá hoại hòa bình đều có thể bị trừng trị thích đáng theo pháp luật.
- Thứ ba: Bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc và củng cố an ninh khu vực. Trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng, bảo vệ hòa bình không chỉ là bảo vệ thế giới mà còn là bảo vệ chính sự ổn định và phát triển bền vững của Tổ quốc. Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược này góp phần ngăn ngừa các hành vi can thiệp vũ trang, gây bất ổn chính trị hoặc xâm phạm lãnh thổ Việt Nam, đồng thời khẳng định bản lĩnh, uy tín và vị thế của Việt Nam như một quốc gia yêu chuộng hòa bình, có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế.
- Thứ tư: Thể hiện tính nhân văn và pháp quyền trong chính sách hình sự. Việc đưa tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược vào Bộ luật Hình sự 2015 thể hiện quan điểm nhân đạo của pháp luật Việt Nam, khi đặt trọng tâm vào bảo vệ con người, bảo vệ quyền được sống trong hòa bình và an ninh. Đây là bước cụ thể hóa tư tưởng “Việt Nam muốn làm bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”; qua đó khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, yêu chuộng hòa bình và hợp tác phát triển của Nhà nước ta.
1.3. Cơ sở pháp lý:
Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược hiện nay đang được quy định tại Điều 421 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào tuyên truyền, kích động chiến tranh xâm lược hoặc chuẩn bị, tiến hành, tham gia chiến tranh xâm lược nhằm chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ độc lập, có chủ quyền khác, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
2. Phạm tội trong trường hợp do bị ép buộc hoặc do thi hành mệnh lệnh của cấp trên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược:
2.1. Khách thể:
Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược xâm phạm trực tiếp đến: Độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ độc lập, có chủ quyền khác.
2.2. Mặt khách quan:
Mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành vi tuyên truyền, kích động chiến tranh xâm lược hoặc chuẩn bị, tiến hành, tham gia chiến tranh xâm lược nhằm chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ độc lập, có chủ quyền khác.
- Hành vi tuyên truyền chiến tranh xâm lược: Là hành vi truyền bá cuộc chiến tranh do một nhà nước, hoặc liên minh các nhà nước tiến hành nhằm xâm lược nước khác một vùng lãnh thổ độc lập, có chủ quyền khác trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc tại các cuộc hội nghị, hội thảo… nhằm chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ độc lập, có chủ quyền khác.
- Hành vi kích động chiến tranh xâm lược: Là hành vi tác động về mặt tinh thần nhằm thay đổi thái độ của người khác đồng tình, tham gia chiến tranh xâm lược chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ độc lập, có chủ quyền khác.
- Hành vi chuẩn bị chiến tranh xâm lược: Là hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết về lực lượng, cơ sở vật chất, vũ khí, trang thiết bị, phương tiện quân sự, các điều kiện vật chất, tinh thần khác cho một cuộc chiến tranh xâm lược chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ độc lập, có chủ quyền khác.
- Hành vi tiến hành, tham gia chiến tranh xâm lược: Là đưa quân đến lãnh thổ của một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ độc lập, có chủ quyền khác hoặc cung cấp tiền bạc, vũ khí cho quân đội của nước đi xâm lược; cử các cố vấn quân sự tham gia cùng quân đội của nước đi xâm lược hoặc trực tiếp tham gia vào quân đội của nước đi xâm lược nước khác…
2.3. Mặt chủ quan:
Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lượcđược thực hiện với hình thức lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình nhưng vẫn thực hiện hành vi đó.
Mục đích phạm tội là nhằm chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ độc lập, có chủ quyền khác.
2.4. Chủ thể:
Chủ thể của Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược là người từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự.
Người có năng lực trách nhiệm hình sự được hiểu là một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng kìm chế để lựa chọn thực hiện hành vi khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
Nếu người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Chỉ được coi là tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự đòi hỏi phải đáp ứng 2 dấu hiệu:
- Người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm là người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần;
- Người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là người không có năng lực nhận thức đòi hỏi của xã hội liên quan đến hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội đã thực hiện, là người không có năng lực đánh giá hành vi đã thực hiện là đúng hay sai, nên làm hay không nên làm. Vì vậy, họ cũng không thể có được năng lực kiềm chế thực hiện hành vi đó. Người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự còn có thể là người tuy có năng lực nhận thức, tuy có khả năng đánh giá được tính chất xã hội của hành vi của mình nhưng do bệnh lý không thể kiềm chế được việc thực hiện hành vi đó.
3. Khung hình phạt của Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược:
Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược theo Điều 421 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
- Khung 2: Phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.
4. Tình tiết định khung hình phạt giảm nhẹ theo Điều 421 Bộ luật hình sự:
Mức hình phạt cao nhất của Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược là tử hình và được quy định tại khoản 1 Điều 421. Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật Hình sự quy định. Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử.
Do đó khoản 2 là khung hình phạt giảm nhẹ của tội danh này với khung hình phạt là phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.
Phạm tội do thi hành mệnh lệnh của cấp trên trong trường hợp này không thuộc loại trừ trách nhiệm hình sự.
Theo đó, Điều 26 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: “Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự. Quy định này không áp dụng đối với các trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 421, Khoản 2 Điều 422 và Khoản 2 Điều 423 của Bộ luật này”.
Chính vì vậy mà ngay cả khi người phạm tội thực hiện hành vi tuyên truyền, kích động chiến tranh xâm lược hoặc chuẩn bị, tiến hành, tham gia chiến tranh xâm lược nhằm chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ độc lập, có chủ quyền khác theo mệnh lệnh của cấp trên hoặc dù người phạm tội đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó thì trong mọi trường hợp vẫn phải chịu hình phạt theo Khoản 2 Điều 421 Bộ luật Hình sự 2015 về Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược.
Quy định trên xuất phát từ tính chất đặc biệt nghiêm trọng của các tội danh trên nên các nhà lập pháp đã xác định sẽ không có trường hợp ngoại lệ cho những loại tội phạm này. Nếu có ngoại lệ thì an ninh quốc phòng đất nước sẽ bị đe dọa. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi cho người thi hành mệnh lệnh thì pháp luật cũng cần có quy định cụ thể về hình thức ra mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên và quy trình báo cáo của người thi hành mệnh lệnh như: Mệnh lệnh bằng lời nói và mệnh lệnh bằng văn bản (quyết định, chỉ thị…).
Đối với mệnh lệnh bằng lời nói, cần có người chứng kiến (vì thực tiễn đã có rất nhiều vụ việc người chỉ huy hoặc cấp trên ra mệnh lệnh nhưng khi hậu quả xảy ra lại không công nhận mệnh lệnh của mình), do đó dẫn đến oan sai cho người thi hành mệnh lệnh. Trong trường hợp giao nhiệm vụ chỉ có hai người thì rất khó chứng minh việc có giao mệnh lệnh hay không. Đối với trường hợp báo cáo đầy đủ của cấp dưới cũng cần quy định theo hướng như ra mệnh lệnh. Trong trường hợp người thi hành báo cáo về mệnh lệnh cũng cần có sự chứng kiến của người thứ ba.
5. Phân biệt với Tội chống loài người:
Tiêu chí | Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược (Điều 421 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội chống loài người (Điều 422 Bộ luật Hình sự 2015) |
---|---|---|
Khái niệm | Là hành vi tuyên truyền, kích động, chuẩn bị, tiến hành hoặc tham gia chiến tranh xâm lược nhằm chống lại độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khác. | Là hành vi tiêu diệt hàng loạt dân cư, hủy diệt văn hóa, phá hoại môi trường sống hoặc diệt chủng nhằm xóa bỏ một cộng đồng người, phá hoại nền tảng xã hội hoặc sự sống tự nhiên. |
Khách thể bị xâm phạm | Hòa bình, an ninh thế giới, độc lập và chủ quyền quốc gia. | Quyền sống, quyền tồn tại và sự phát triển của loài người, của một dân tộc hoặc cộng đồng quốc gia. |
Bản chất pháp lý | Là tội phạm xâm lược mang tính quốc tế – chính trị nhằm gây chiến tranh, đe dọa hòa bình. | Là tội phạm chống nhân loại; mang tính phi nhân đạo, hướng đến hủy diệt con người, môi trường sống và nền văn minh. |
Hành vi khách quan | Bao gồm các hành vi:
| Bao gồm các hành vi:
|
Thời điểm phạm tội | Thường xảy ra trước hoặc trong quá trình chiến tranh, khi hành vi chuẩn bị hoặc tiến hành chiến tranh xâm lược. | Có thể xảy ra trong thời bình hoặc trong chiến tranh, miễn là có hành vi hủy diệt loài người, dân cư hoặc môi trường sống. |
Mức độ nguy hiểm cho xã hội | Đặc biệt nghiêm trọng, đe dọa trực tiếp nền hòa bình, an ninh quốc tế và chủ quyền quốc gia. | Đặc biệt nghiêm trọng, đe dọa sự tồn vong của nhân loại, môi trường và nền văn minh thế giới. |
Mặt chủ quan | Lỗi cố ý trực tiếp với mục đích xâm lược, thôn tính hoặc áp đặt quyền lực chính trị quân sự lên quốc gia khác. | Lỗi cố ý trực tiếp với mục đích tiêu diệt, hủy diệt hoặc triệt tiêu cộng đồng dân cư, nền văn hóa hoặc hệ sinh thái. |
Chủ thể của tội phạm | Chủ thể đặc biệt. Thường là người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước, quân đội, hoặc người chỉ huy chiến tranh. | Chủ thể có thể là bất kỳ cá nhân nào, nhưng trong thực tiễn thường là người đứng đầu, chỉ huy hoặc cá nhân có quyền lực chính trị quân sự thực hiện tội ác nhân loại. |
Hình phạt chính | Khung 1: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Khung 2: Phạt tù từ 10 năm đến 20 năm. | Khung 1: Phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Khung 2: Phạt tù từ 10 năm đến 20 năm. |
6. Kiến nghị hoàn thiện đối với Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược:
6.1. Đánh giá tính phù hợp của quy định hiện hành:
Điều 421 Bộ luật Hình sự 2015 quy định Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược với mức hình phạt từ 12 năm tù đến tử hình thể hiện thái độ kiên quyết của Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ hòa bình, độc lập, chủ quyền quốc gia và an ninh thế giới. So với Bộ luật Hình sự năm 1999, quy định hiện hành giữ nguyên cấu trúc điều luật; đồng thời điều chỉnh kỹ hơn về thuật ngữ và phạm vi hành vi, giúp phù hợp với chuẩn mực pháp lý quốc tế, đặc biệt là Hiến chương Liên Hợp Quốc và Quy chế Rome năm 1998 về Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC).
Tuy nhiên trên thực tế, quy định tại Điều 421 Bộ luật Hình sự 2015 vẫn mang tính khái quát cao, chủ yếu mang ý nghĩa răn đe, tuyên bố chính trị và thể hiện lập trường đối ngoại của Việt Nam, chứ chưa có tính khả thi cao trong áp dụng thực tế tố tụng hình sự. Việt Nam là quốc gia yêu chuộng hòa bình, không tham gia hoặc khởi xướng chiến tranh; do đó việc phát hiện, điều tra hay truy tố tội danh này gần như chưa có tiền lệ trong thực tiễn xét xử.
6.2. Những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng:
Thứ nhất, khó khăn trong việc xác định hành vi phạm tội. Khác với tội phạm thông thường, hành vi “phá hoại hòa bình” hoặc “gây chiến tranh xâm lược” thường do tập thể, tổ chức hoặc quốc gia thực hiện, không phải hành vi cá nhân thuần túy. Do đó, việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm hình sự cá nhân là cực kỳ khó, nhất là khi hành vi xâm lược có yếu tố nước ngoài hoặc do quyết định chính trị cấp cao.
Thứ hai, thiếu cơ chế phối hợp quốc tế trong điều tra và xử lý tội phạm chiến tranh. Việt Nam hiện chưa là thành viên của Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC), do đó việc xử lý hành vi phạm tội mang yếu tố xuyên quốc gia như “gây chiến tranh xâm lược” chưa có cơ chế thực thi hiệu quả. Điều này dẫn đến tình trạng quy định pháp luật chủ yếu mang tính phòng ngừa và tuyên bố chính trị hơn là công cụ thực thi trực tiếp.
Thứ ba, chưa có hướng dẫn cụ thể của cơ quan có thẩm quyền về dấu hiệu pháp lý đặc thù của tội danh này. Điều đó khiến các cơ quan tiến hành tố tụng gặp khó khăn trong nhận diện, thu thập chứng cứ và phân biệt tội danh với các hành vi vi phạm quy tắc nhân đạo khác như tội phạm chiến tranh (Điều 422 Bộ luật Hình sự 2015) hoặc tội chống loài người (Điều 423 Bộ luật Hình sự 2015).
6.3. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật:
Thứ nhất, cần bổ sung hướng dẫn chi tiết về các dấu hiệu pháp lý của tội danh, đặc biệt là:
- Xác định cụ thể thế nào là “phá hoại hòa bình” và “chiến tranh xâm lược”;
- Làm rõ phạm vi chủ thể, đặc biệt với người có quyền ra mệnh lệnh, chỉ huy quân đội, cơ quan ngoại giao hoặc cơ quan quốc phòng;
- Phân biệt rõ với các hành vi vi phạm quy tắc nhân đạo khác trong xung đột vũ trang.
Việc này có thể được cụ thể hóa thông qua Nghị quyết hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hoặc Thông tư liên tịch giữa Bộ Quốc phòng và Bộ Công an để đảm bảo thống nhất trong áp dụng pháp luật.
Thứ hai, cần tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm chiến tranh.Việt Nam có thể xem xét gia nhập hoặc hợp tác sâu hơn với Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC), nhằm bảo đảm cơ chế pháp lý quốc tế cho việc xử lý các tội phạm xâm lược, chống loài người, phá hoại hòa bình. Việc tham gia ICC không chỉ giúp nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam mà còn tạo công cụ pháp lý mạnh mẽ để xử lý các hành vi đe dọa an ninh và chủ quyền quốc gia.
Thứ ba, cần đưa nội dung giáo dục về tội phạm chiến tranh và tội phạm quốc tế vào chương trình đào tạo của các trường luật, học viện an ninh và quân sự. Điều này không chỉ giúp nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ tư pháp, mà còn nâng cao nhận thức xã hội về giá trị của hòa bình và luật pháp quốc tế.
Thứ tư, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, Việt Nam cần xây dựng cơ chế giám sát, cảnh báo sớm về nguy cơ xung đột vũ trang hoặc hành vi xâm lược. Các cơ quan như Ủy ban Quốc phòng An ninh của Quốc hội, Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng cần có cơ chế phối hợp thông tin để kịp thời phát hiện, ngăn ngừa và xử lý những hành vi có thể vi phạm nghĩa vụ quốc tế về gìn giữ hòa bình.
THAM KHẢO THÊM: