Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu được quy định tại Điều 384 Bộ luật Hình sự 2015. Đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sự trung thực, khách quan của hoạt động tố tụng. Hành vi này không chỉ làm sai lệch sự thật trong các vụ án, vụ việc mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin của nhân dân vào công lý và hệ thống tư pháp.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát về Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu:
- 2 2. Cấu thành Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu:
- 4 4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 384 Bộ luật Hình sự:
- 5 5. Phân biệt với Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối:
1. Khái quát về Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu:
1.1. Khái niệm:
Trong hoạt động tố tụng hình sự, hành chính và dân sự thì việc khai báo trung thực, cung cấp tài liệu đúng sự thật từ các cá nhân liên quan như người làm chứng, người bị hại, người giám định… là yếu tố quan trọng giúp cơ quan tiến hành tố tụng làm rõ sự thật, đảm bảo phán quyết công bằng, khách quan. Tuy nhiên, thực tế vẫn tồn tại những hành vi nhằm mua chuộc, cưỡng ép các chủ thể này khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai lệch, làm sai lệch kết quả giải quyết vụ án, vụ việc. Những hành vi như vậy gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính liêm chính của quá trình tư pháp và cần được xử lý nghiêm minh.
”Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu là hành vi của cá nhân dùng tiền, lợi ích vật chất hoặc các thủ đoạn như cưỡng ép, đe dọa, sử dụng vũ lực để tác động đến người tham gia tố tụng như người làm chứng, người bị hại, người giám định, người định giá… nhằm buộc họ khai báo gian dối, không khai báo, cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc xuyên tạc nội dung tài liệu. Hành vi này là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan tư pháp và làm sai lệch sự thật khách quan trong vụ việc được giải quyết.”
1.2. Ý nghĩa:
- Thứ nhất, bảo đảm tính trung thực và khách quan trong hoạt động tố tụng: Việc xử lý nghiêm hành vi mua chuộc hoặc cưỡng ép người tham gia tố tụng góp phần giữ vững nguyên tắc trung thực khách quan – nền tảng của một hệ thống tư pháp công bằng. Điều này bảo đảm các chứng cứ được thu thập và đánh giá đúng bản chất vụ án, giúp việc điều tra, truy tố và xét xử diễn ra đúng pháp luật và hợp lý.
- Thứ hai, bảo vệ quyền tự do và an toàn của người tham gia tố tụng: Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu góp phần bảo vệ quyền được khai báo một cách độc lập; không bị chi phối, đe dọa hay dụ dỗ của những người tham gia tố tụng. Qua đó pháp luật thể hiện sự bảo vệ đối với quyền cá nhân, đặc biệt là những người yếu thế như nhân chứng, người bị hại hoặc người có nghĩa vụ cung cấp thông tin.
- Thứ ba, góp phần giữ vững niềm tin của xã hội vào công lý: Việc ngăn chặn và xử lý nghiêm hành vi làm sai lệch sự thật trong các vụ án, vụ việc là yếu tố then chốt để củng cố lòng tin của nhân dân vào cơ quan tiến hành tố tụng và hệ thống tư pháp nói chung. Một hệ thống pháp luật nghiêm minh, công bằng sẽ không thể tồn tại nếu cho phép sự thật bị bóp méo bởi những hành vi cưỡng ép hoặc mua chuộc.
- Thứ tư, ngăn ngừa hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp: Việc quy định tội danh này có ý nghĩa răn đe mạnh mẽ đối với những cá nhân có ý định can thiệp bất hợp pháp vào quá trình điều tra, xét xử. Quy định này góp phần giữ gìn kỷ cương pháp luật, bảo đảm hoạt động tư pháp được thực hiện độc lập, đúng trình tự thủ tục và không bị chi phối bởi yếu tố bên ngoài
1.3. Cơ sở pháp lý:
Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu hiện nay đang được quy định tại Điều 384 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
”1. Người nào mua chuộc hoặc cưỡng ép người làm chứng, người bị hại, đương sự trong các vụ án hình sự, hành chính, dân sự khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc không khai báo, không cung cấp tài liệu; mua chuộc hoặc cưỡng ép người giám định, người định giá tài sản kết luận gian dối, người phiên dịch, người dịch thuật dịch xuyên tạc, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm khác;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Dẫn đến việc giải quyết vụ án, vụ việc bị sai lệch.”
2. Cấu thành Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu:
2.1. Khách thể:
Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu xâm phạm đến hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng; đồng thời xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và của công dân làm cho việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án bị kéo dài, bị sai lệch, thậm chí làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm; gây thiệt hại nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng cho các đương sự.
Đối tượng tác động của tội phạm này là những người bị mua chuộc, bị cưỡng ép khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật. Những người này có thể là người làm chứng, người bị hại, người giám định hoặc người phiên dịch. Người phạm tội tác động đến những người này để thông qua họ xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan tiến hành tố tụng.
Nếu những người bị mua chuộc lại là người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn để khai báo gian dối, từ chối khai báo, từ chối cung cấp tài liệu, từ chối giám định hoặc dịch xuyên tác thì tùy trường hợp họ có hể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội nhận hối lộ hoặc tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ. Đối với người bị cưỡng ép bằng vũ lực mà bị gây thiệt hại về thể chất hoặc thinh thần thì tùy trường hợp họ có thể là người bị hại trong vụ án; nếu như họ không còn cách nào khác buộc phải khai báo gian dối, từ chối khai báo, từ chối cung cấp tài liệu, từ chối giám định hoặc dịch sai.
2.2. Mặt khách quan:
a. Hành vi khách quan:
Người phạm tội có thể thực hiện hành vi mua chuộc hoặc hành vi cưỡng ép người khác. Cụ thể:
- Mua chuộc: Là dùng tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác để lôi kéo người khác làm một việc theo ý muốn của người mua chuộc. Mua chuộc người khác khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật là dùng tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác để lôi kéo người làm chứng, người bị hại khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, người giám định kết luận gian dối, người phiên dịch dịch xuyên tạc.
- Cưỡng ép: Là dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm khác nhằm buộc người làm chứng, người bị hại, người giám định hoặc người phiên dịch phải khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, kết luận gian dối hoặc dịch xuyên tạc.
Hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lức hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm khác cũng tương tự như hành vi quy định trong các tội cướp, cưỡng đoạt tài sản. Chỉ khác ở chỗ, đối với cướp, cưỡng đoạt tài sản người phạm tội thực hiện hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác là nhằm chiếm đoạt tài sản. Còn ở tội phạm này người phạm tội dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác là nhằm để người làm chứng, người bị hại, người giám định hoặc người phiên dịch phải khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, kết luận gian dối hoặc dịch xuyên tạc.
Nếu người phạm tội dùng vũ lực mà gây thương tích hoặc gây chết người thì tùy trường hợp người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội cố ý gây thương tích (Điều 134) hoặc Tội giết người (Điều 123). Tuy nhiên, nếu người phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội giết người thì có thể không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự hình sự về Tội cưỡng ép người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật mà chỉ coi động cơ của Tội cố ý gây thương tích hoặc Tội giết người.
a. Về hậu quả:
Hậu quả của hành vi mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này.
Nếu hành vi mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật gây ra hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì tùy trường hợp mà người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt nặng hơn người phạm tội chưa gây ra hậu quả.
c. Các dấu hiệu khách quan khác:
Đối với tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, ngoài hành vi khách quan, cần phải xác định lời khai của người bị mua chuộc, cưỡng ép có phải là gian dối hay không; tài liệu mà người bị mua chuộc hoặc bị cưỡng ép cung cấp có phải là tài liệu sai sự thật hay không.
Nếu trong trường hợp người bị mua chuộc, bị cưỡng ép khai báo không gian dối, tài liệu mà họ cung cấp không phải là tài liệu sai sự thật hoặc người bị mua chuộc, cưỡng ép không khai báo hoặc không cung cấp tài liệu sai sự thật thì về nguyên tắc, người phạm tội đã thực hiện hết hành vi khách quan nhưng chưa đạt được mục đích nên tùy trường hợp người có hành vi mua chuộc hoặc cưỡng ép vẫn có bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật (ở giai đoạn phạm tội chưa đạt).
Tuy nhiên, nếu hành vi mua chuộc hoặc cưỡng ép cấu thành tội phạm khác thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng đó mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật.
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu không phải là chủ thể đặc biệt.
Bất cứ ai cũng có thể trở thành chủ thể của tội phạm này nếu họ đến một độ tuổi theo quy định của pháp luật và có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ (từ đủ 16 tuổi trở lên).
2.4. Mặt chủ quan:
Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu được thực hiện với lỗi cố ý.
Người phạm tội có thể vì động cơ khác nhau nhưng đều có chung một mục đích là nhằm làm cho người bị mua chuộc, bị cưỡng ép phải khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật mà mình mong muốn.
3. Khung hình phạt của Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu:
Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu theo Điều 384 Bộ luật Hình sự 2015 gồm những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 384 Bộ luật Hình sự:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu được quy định tại khoản 2 Điều 384 Bộ luật Hình sự 2015 với khung hình phạt là phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
- Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm khác: Đây là tình tiết phản ánh mức độ nguy hiểm cao của hành vi phạm tội khi người phạm tội sử dụng bạo lực, đe dọa gây tổn hại đến tính mạng, sức khỏe hoặc dùng các thủ đoạn tinh vi, tàn độc khác để ép buộc người khác khai báo gian dối, không cung cấp tài liệu, hoặc cung cấp thông tin sai sự thật. Hành vi này không chỉ xâm phạm đến quyền tự do cá nhân của người liên quan trong tố tụng mà còn cản trở nghiêm trọng đến quá trình điều tra, xét xử công bằng. Vì vậy, pháp luật quy định khung hình phạt nghiêm khắc hơn (từ 2 năm đến 7 năm tù) nhằm bảo đảm tính răn đe và bảo vệ sự liêm chính của hoạt động tố tụng.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn: Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để cưỡng ép hoặc mua chuộc người tham gia tố tụng có tính chất nguy hiểm hơn do người phạm tội thường là cán bộ, người có vị trí trong cơ quan pháp luật, dễ gây áp lực tâm lý, làm người khác buộc phải khai báo gian dối hoặc im lặng. Việc lợi dụng quyền lực để làm sai lệch sự thật khách quan không chỉ gây ảnh hưởng trực tiếp đến công lý mà còn làm suy giảm niềm tin của xã hội vào cơ quan tư pháp. Chính vì vậy, pháp luật xem đây là tình tiết tăng nặng khung hình phạt nhằm ngăn chặn hành vi lạm dụng quyền lực trong hoạt động tố tụng.
- Dẫn đến việc giải quyết vụ án, vụ việc bị sai lệch: Đây là tình tiết thể hiện hậu quả đặc biệt nghiêm trọng của hành vi phạm tội, khi việc cưỡng ép, mua chuộc người khác không chỉ dừng lại ở việc gây cản trở tố tụng mà còn trực tiếp làm thay đổi bản chất của vụ án, vụ việc. Hậu quả có thể là người vô tội bị kết án, người có tội không bị xử lý đúng mức hoặc quyền lợi của các bên bị xâm phạm nghiêm trọng. Tình tiết này làm mất đi tính công bằng, khách quan trong hoạt động xét xử, từ đó ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống pháp luật và niềm tin công lý. Vì vậy, người phạm tội trong trường hợp này phải chịu mức hình phạt nghiêm khắc hơn theo quy định pháp luật.
5. Phân biệt với Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối:
Tiêu chí | Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối (Điều 382 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác trong việc khai báo, cung cấp tài liệu (Điều 384 Bộ luật Hình sự 2015) |
Chủ thể | Là người trực tiếp tham gia tố tụng như: người làm chứng, giám định viên, định giá viên, người phiên dịch, người dịch thuật, người bào chữa… | Là người không nhất thiết tham gia tố tụng; có hành vi tác động trái pháp luật đến người tham gia tố tụng. |
Hành vi phạm tội | Tự mình cố ý khai báo gian dối, kết luận sai, dịch sai, cung cấp tài liệu sai sự thật. | Dùng tiền, lợi ích vật chất, vũ lực, đe dọa hoặc thủ đoạn khác để ép người khác khai gian, cung cấp tài liệu sai. |
Tính chất hành vi | Chủ động gian dối từ phía người có nghĩa vụ trung thực trong tố tụng. | Gây ảnh hưởng, tác động trái pháp luật đến người khác để làm sai lệch sự thật. |
Hậu quả có thể xảy ra | Làm sai lệch sự thật khách quan của vụ án, có thể dẫn đến án oan, bỏ lọt tội phạm. | Là nguyên nhân gián tiếp khiến người khác khai báo gian dối, làm sai lệch kết quả giải quyết vụ án. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. Khung 2: Phạt tù từ 01 năm đến 03 năm. Khung 3: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Không quy định hình phạt bổ sung. |
THAM KHẢO THÊM: