Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật là hành vi của người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước, đã lợi dụng quyền lực được giao để xâm phạm quyền tự do thân thể của người khác. Vì vậy được Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định và xử lý nghiêm khắc tội danh này tại Điều 377 nhằm bảo vệ quyền con người và tính liêm chính của quyền lực công.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát về Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật:
- 2 2. Cấu thành Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật:
- 4 4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 377 Bộ luật Hình sự:
- 5 5. Phân biệt với Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật:
- 6 6. Một số so sánh và tham chiếu với quy định của pháp luật quốc tế:
1. Khái quát về Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật:
1.1. Khái niệm:
Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền con người, quyền công dân luôn được xác định là giá trị cốt lõi, được Hiến pháp và pháp luật bảo đảm, đặc biệt là quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Mọi hành vi bắt, giữ, giam người đều phải tuân thủ nghiêm ngặt trình tự, thủ tục và thẩm quyền do pháp luật quy định. Tuy nhiên trên thực tế, vẫn có những trường hợp người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng địa vị, quyền lực được giao để thực hiện hành vi xâm phạm quyền tự do thân thể của công dân. Đó chính là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật – một tội danh đặc biệt nghiêm trọng được quy định trong Bộ luật Hình sự 2015 nhằm bảo vệ trật tự quản lý hành chính và quyền con người trong hoạt động tư pháp.
“Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức nhà nước, đã dựa vào hoặc vượt quá thẩm quyền của mình, lợi dụng vị trí công vụ được giao, để bắt, giữ hoặc giam người không đúng quy định của pháp luật.”
1.2. Ý nghĩa:
Việc quy định tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật trong Bộ luật Hình sự có ý nghĩa hết sức quan trọng trên nhiều phương diện:
- Thứ nhất: Thể hiện rõ chính sách hình sự nhất quán của Nhà nước ta trong việc bảo vệ quyền con người, đặc biệt là quyền tự do thân thể – một trong những quyền cơ bản nhất của công dân được Hiến pháp năm 2013 bảo đảm.
- Thứ hai: Góp phần bảo đảm tính nghiêm minh, liêm chính trong hoạt động của bộ máy Nhà nước; nhất là trong các lĩnh vực tư pháp, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án – nơi đòi hỏi sự chuẩn mực tuyệt đối về pháp quyền.
- Thứ ba: Đây là biện pháp răn đe, phòng ngừa hữu hiệu đối với những cán bộ, công chức có biểu hiện lạm quyền, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, qua đó củng cố niềm tin của nhân dân vào cơ quan bảo vệ pháp luật.
- Thứ tư: Quy định này còn mang ý nghĩa giáo dục pháp luật giúp nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh thần thượng tôn pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ, đồng thời bảo đảm mọi hành vi xâm phạm quyền con người đều bị xử lý nghiêm minh.
1.3. Cơ sở pháp lý:
Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật hiện nay đang được quy định tại Điều 377 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Không ra quyết định trả tự do cho người được trả tự do theo quy định của luật;
b) Ra lệnh, quyết định bắt, giữ, giam người không có căn cứ theo quy định của luật;
c) Không chấp hành quyết định trả tự do cho người được trả tự do theo quy định của luật;
d) Thực hiện việc bắt, giữ, giam người không có lệnh, quyết định theo quy định của luật hoặc tuy có lệnh, quyết định nhưng chưa có hiệu lực thi hành;
đ) Không ra lệnh, quyết định gia hạn tạm giữ, tạm giam hoặc thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giữ, tạm giam khi hết thời hạn tạm giữ, tạm giam dẫn đến người bị tạm giữ, tạm giam bị giam, giữ quá hạn.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Giam, giữ trái pháp luật từ 02 người đến 05 người;
b) Làm người bị giam, giữ trái pháp luật tổn hại về sức khỏe với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
c) Làm người bị giam, giữ hoặc gia đình họ lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn;
d) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Giam, giữ trái pháp luật 06 người trở lên;
b) Làm người bị giam, giữ trái pháp luật tổn hại về sức khỏe với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc chết;
c) Làm người bị giam, giữ tự sát;
d) Làm gia đình người bị giam, giữ ly tán.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật:
2.1. Khách thể:
Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật xâm phạm đến tính đúng đắn của hoạt động tố tụng.
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi khách quan của Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật là hành vi dưới dạng không hành động, cụ thể:
- Không ra quyết định trả tự do cho người được trả tự do theo quy định của pháp luật. Người có đủ thẩm quyền và có đủ căn cứ pháp lý đê ra quyết định trả tự do cho người bị giam, giữ nhưng đã không ra quyết định trả tự do cho người đó;
- Không thực hiện quyết định trả tự do cho người được trả tự do theo quy định của pháp luật. Người có trách nhiệm thi hành các quyết định trả tự do cho người bị giam, giữ đã không thực hiện quyết định trả tự do của cấp có thẩm quyền;
- Quyết định bắt, giữ, giam người không có căn cứ theo quyết định của luật;
- Không chấp hành quyết định trả tự do cho người được trả tự do theo quyết định của luật;
- Thực hiện việc bắt, giữ, giam người không có lệnh, theo quyết định của luật hoặc tuy có lệnh, quyết định nhưng chưa có hiệu lực thi hành;
- Không ra lệnh, quyết định gia hạn tạm giữ, tạm giam hoặc thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giữ, tạm giam khi hết thời hạn tạm giữ, lạm giam dẫn đến người bị tạm giữ, tạm giam bị giam, giữ quá hạn.
Ra quyết định bắt, giữ, giam người không có căn cứ theo quy định của luật; như ra quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam, giữ người trong trường hợp khẩn cấp, ra lệnh tạm giam… không đủ căn cứ theo quy định của pháp luật. Trong các trường hợp này, người có chức vụ, quyền hạn biết rõ việc bắt, giam, giữ người là không có căn cứ nhưng vẫn ra quyết định. Nếu do trình độ non kém mà quyết định bắt, giữ, giam người không có căn cứ thì không phạm tội này.
Thực hiện việc bắt, giữ, giam người không có lệnh, quyết định theo quy định của luật hoặc tuy có lệnh, quyết định nhưng chưa có hiệu lực thi hành. Đây là trường hợp bắt, giữ, giam người mặc dù có căn cứ nhưng sai về thủ tục (không có lệnh hoặc lệnh, quyết định chưa có hiệu lực).
Không ra lệnh, quyết định gia hạn tạm giữ, tạm giam hoặc thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giữ, tạm giam khi hết thời hạn tạm giữ, tạm giam dẫn đến người bị tạm giữ, tạm giam bị giam, giữ quá hạn. Trường hợp này người có thẩm quyền biết rõ đã hết thời hạn tạm giữ, tạm giam nhưng cố ý không gia hạn tạm giữ, tạm giam hoặc thay đổi biện pháp ngăn chặn.
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật là chủ thể đặc biệt – người có chức vụ, quyền hạn trong việc bắt, giữ, giam, trả tự do cho người bị bắt, giam, giữ. Bao gồm cả người có nghĩa vụ ra quyết định (người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người được giao một số hoạt động điều tra) và người có nghĩa vụ chấp hành quyết định (Ban giám thị Nhà tạm giữ, Trại tạm giam, Trại giam; cán bộ, chiến sĩ có nhiệm vụ canh giữ, dẫn giải người bị giam, giữ…).
Trường hợp người không có chức vụ, quyền hạn ra lệnh bắt, giam, giữ người trái pháp luật thì không phải là chủ thể của tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giam, giữ người trái pháp luật” mà sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 157 Bộ luật Hình sự năm 2015).
2.4. Mặt chủ quan:
Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật được thực hiện với lỗi cố ý.
Theo đó, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn và việc không ra quyết định trả tự do hoặc không chấp hành quyết định trả tự do cho người bị giam, giữ là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hoặc để mặc cho hậu quả xảy ra.
Trường hợp do cầu thả để quá hạn giữ, giam hoặc thiếu trách nhiệm không giao lệnh, quyết định đến cơ quan có thẩm quyền dẫn đến người bị bắt, giữ, giam trái pháp luật thì không cấu thành tội này mà tùy trường hợp có thể bị xử lý kỷ luật hoặc cấu thành tội phạm khác.
3. Khung hình phạt của Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật:
Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật theo Điều 377 Bộ luật Hình sự 2015 gồm những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Bộ luật Hình sự năm 2015 đã cụ thể hóa các tình tiết định tính “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” tại khoản 2, khoản 3, cụ thể:
- Tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” tại khoản 2 được cụ thể như sau: Giam, giữ trái pháp luật từ 02 người đến 05 người; Làm người bị giam, giữ trái pháp luật bị tổn hại về sức khỏe với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; Làm người bị giam, giữ hoặc gia đình họ lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn; Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.
- Tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” tại khoản 3 được cụ thể như sau: Giam, giữ trái pháp luật 06 người trở lên; Làm người bị giam, giữ trái pháp luật tổn hại về sức khỏe với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc chết; Làm người bị giam, giữ tự sát; Làm gia đình người bị giam, giữ ly tán.
4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 377 Bộ luật Hình sự:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 377 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
4.1. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 377:
- Giam, giữ trái pháp luật từ 02 người đến 05 người: Đây là tình tiết định khung tăng nặng phản ánh mức độ mở rộng phạm vi xâm hại quyền con người của hành vi phạm tội. Khi người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng địa vị của mình để bắt, giữ, giam từ hai người trở lên tức là hành vi không còn mang tính cá biệt mà đã trở thành hành vi có tính hệ thống, ảnh hưởng đến nhiều cá nhân cùng lúc. Việc giam giữ nhiều người trái pháp luật thể hiện mức độ nguy hiểm cao hơn cho xã hội, gây mất niềm tin vào cơ quan công quyền, làm giảm uy tín của cơ quan nhà nước, đồng thời cho thấy người phạm tội có động cơ, ý chí thực hiện hành vi trái pháp luật một cách có chủ đích và kéo dài. Vì vậy, pháp luật quy định khung hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù nhằm bảo đảm tính răn đe tương xứng.
- Làm người bị giam, giữ trái pháp luật tổn hại về sức khỏe với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%: Tình tiết này thể hiện hậu quả nghiêm trọng về thể chất mà hành vi trái pháp luật của người phạm tội gây ra. Việc bắt, giữ, giam người không đúng quy định đã xâm phạm quyền tự do thân thể, nay còn dẫn đến thiệt hại thực tế về sức khỏe với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% càng làm tăng tính nguy hiểm cho xã hội. Trong nhiều trường hợp, việc giam giữ trái pháp luật kèm theo điều kiện sinh hoạt khắc nghiệt, thiếu chăm sóc y tế hoặc có hành vi bạo lực, nhục hình dẫn đến tổn thương sức khỏe của nạn nhân. Do đó, hậu quả này là yếu tố khách quan làm tăng nặng trách nhiệm hình sự, thể hiện sự coi thường tính mạng, sức khỏe con người của người phạm tội.
- Làm người bị giam, giữ hoặc gia đình họ lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn: Đây là tình tiết tăng nặng nhằm bảo vệ quyền con người trên cả phương diện kinh tế và nhân đạo. Khi người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi giam giữ trái pháp luật dẫn đến việc người bị giam không thể lao động, kiếm sống hoặc khiến gia đình họ mất nguồn thu nhập chính, rơi vào tình trạng đặc biệt khó khăn thì mức độ thiệt hại không chỉ dừng lại ở tự do thân thể mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống vật chất và tinh thần. Tình tiết này thể hiện quan điểm nhân văn của pháp luật hình sự Việt Nam, coi trọng hậu quả toàn diện của tội phạm, nhất là đối với những người yếu thế về kinh tế.
- Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng: Đây là nhóm tình tiết tăng nặng có tính bảo vệ đặc biệt đối với các đối tượng yếu thế trong xã hội. Việc người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bắt, giữ, giam những người thuộc nhóm này không chỉ xâm phạm quyền tự do thân thể mà còn xâm hại đến đạo đức xã hội và nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật hình sự. Những đối tượng này vốn cần được bảo vệ, chăm sóc đặc biệt; do đó việc giam giữ họ trái pháp luật thể hiện mức độ vô nhân đạo và lạm quyền nghiêm trọng. Vì vậy, hành vi này được xếp vào khung hình phạt cao hơn để bảo đảm tính răn đe và giáo dục chung.
4.2. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 3 Điều 377:
- Giam, giữ trái pháp luật 06 người trở lên: Tình tiết này phản ánh quy mô và tính chất đặc biệt nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Khi số lượng người bị giam giữ trái pháp luật lên đến từ sáu người trở lên, hành vi đó không chỉ là vi phạm cá biệt mà đã trở thành hành vi xâm phạm nghiêm trọng trật tự pháp luật, quyền tự do của nhiều công dân cùng lúc, có thể gây dư luận xấu trong xã hội, làm mất niềm tin vào hệ thống tư pháp. Do đó, pháp luật quy định hình phạt từ 05 năm đến 12 năm tù, thể hiện thái độ kiên quyết xử lý nghiêm khắc đối với những người có chức vụ, quyền hạn lạm quyền một cách có hệ thống.
- Làm người bị giam, giữ trái pháp luật tổn hại về sức khỏe với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc chết: Đây là tình tiết thể hiện hậu quả đặc biệt nghiêm trọng về mặt thể chất và nhân thân của nạn nhân. Việc gây tổn hại sức khỏe nghiêm trọng hoặc dẫn đến cái chết của người bị giam giữ trái pháp luật cho thấy người phạm tội vừa xâm phạm quyền tự do, vừa xâm phạm quyền được sống của con người. Hành vi này thể hiện sự tàn nhẫn, coi thường tính mạng con người, nên mức hình phạt cao nhất trong khung (đến 12 năm tù) là hoàn toàn phù hợp, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và tính răn đe đối với các chủ thể có chức vụ, quyền hạn.
- Làm người bị giam, giữ tự sát: Tình tiết này nhấn mạnh hậu quả đặc biệt nghiêm trọng về tinh thần mà hành vi trái pháp luật gây ra. Khi người bị giam giữ trái pháp luật bị dồn nén, chịu áp lực, sợ hãi, hoặc bị đối xử tàn tệ đến mức tự tìm đến cái chết, trách nhiệm của người lợi dụng chức vụ, quyền hạn càng trở nên nghiêm trọng hơn. Đây là hậu quả phản ánh sự suy sụp tinh thần cực độ của nạn nhân, đồng thời thể hiện mức độ lạm quyền, vô nhân đạo của người phạm tội. Việc quy định tình tiết này nhằm khẳng định pháp luật không chỉ bảo vệ quyền tự do thân thể mà còn bảo vệ quyền được sống, được tôn trọng về nhân phẩm và danh dự của mỗi công dân.
- Làm gia đình người bị giam, giữ ly tán: Đây là tình tiết thể hiện hậu quả xã hội và nhân thân sâu sắc do hành vi phạm tội gây ra. Khi một người bị giam giữ trái pháp luật, gia đình họ có thể bị chia cắt, mất đoàn kết, vợ chồng ly hôn, con cái bỏ học, hoặc gia đình rơi vào khủng hoảng kéo dài. Tình tiết này không chỉ phản ánh hậu quả cá nhân mà còn tác động tiêu cực đến nền tảng đạo đức, nhân văn và ổn định xã hội. Vì vậy, pháp luật quy định đây là tình tiết định khung tăng nặng ở mức cao nhất, thể hiện thái độ nghiêm khắc của Nhà nước đối với hành vi lạm quyền xâm phạm nghiêm trọng quyền con người.
5. Phân biệt với Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật:
Tiêu chí | Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 157 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật (Điều 377 Bộ luật Hình sự 2015) |
Vị trí trong Bộ luật Hình sự | Chương XIV – Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân. | Chương XXIII – Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. |
Khách thể bị xâm phạm | Quyền tự do thân thể của công dân, quyền bất khả xâm phạm về thân thể được Hiến pháp bảo hộ. | Vừa xâm phạm quyền tự do thân thể của công dân, vừa xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan tư pháp, quản lý nhà nước. |
Mặt khách quan – hành vi phạm tội | Hành vi bắt, giữ, giam người trái pháp luật – không có thẩm quyền, không có căn cứ pháp lý, hoặc thực hiện ngoài trình tự thủ tục quy định. | Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện việc bắt, giữ, giam người trái pháp luật, bao gồm: ra lệnh, giữ người khi chưa có hiệu lực, không trả tự do, giam quá hạn… |
Tính chất hành vi | Hành vi trái pháp luật thường do cá nhân bình thường hoặc cán bộ nhưng không lợi dụng quyền hạn công vụ. | Hành vi trái pháp luật do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện, lợi dụng quyền lực nhà nước để thực hiện. |
Chủ thể của tội phạm | Bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ 16 tuổi trở lên. | Chủ thể đặc biệt – người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan nhà nước, cơ quan tư pháp, hoặc được giao thực hiện công vụ. |
Mặt chủ quan (lỗi) | Lỗi cố ý trực tiếp hoặc gián tiếp; người phạm tội biết rõ hành vi trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện. | Lỗi cố ý trực tiếp; ý thức lợi dụng quyền lực công để đạt mục đích trái pháp luật (trừng phạt, vụ lợi, lạm quyền…). |
Hậu quả pháp lý bắt buộc | Không yêu cầu hậu quả cụ thể; hành vi bắt, giữ, giam trái luật là đủ cấu thành tội phạm. | Cũng không yêu cầu hậu quả cụ thể, nhưng thường gây hậu quả nghiêm trọng hơn do có yếu tố công quyền, có thể dẫn đến mất niềm tin vào cơ quan tư pháp. |
Hình phạt chính | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 3: Phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. | Khung 1: phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 3: Phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
6. Một số so sánh và tham chiếu với quy định của pháp luật quốc tế:
6.1. Cách các hệ thống pháp luật khác xử lý hậu quả xã hội do hành vi lạm quyền gây ra:
Trong nhiều quốc gia theo truyền thống pháp quyền hiện đại, các hành vi lạm dụng quyền lực nhà nước để bắt, giữ, giam người trái pháp luật đều được xem là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng không chỉ vì xâm phạm tự do cá nhân mà còn bởi tác động dây chuyền đến gia đình và xã hội.
- Tại Hoa Kỳ, hệ thống tư pháp Mỹ còn cho phép gia đình nạn nhân khởi kiện dân sự độc lập để đòi bồi thường thiệt hại, bao gồm cả tổn thất tinh thần và hôn nhân đổ vỡ;
- Tại Pháp, tội danh về hành vi giam giữ tùy tiện được quy định trong Bộ luật Hình sự Pháp với tình tiết tăng nặng nếu người phạm tội là công chức hoặc người thi hành công vụ, đặc biệt khi hành vi đó gây hậu quả nghiêm trọng – tức xâm hại nghiêm trọng đến đời sống gia đình của nạn nhân;
- Ở Đức, pháp luật hình sự nước này coi việc lạm dụng thẩm quyền công vụ để tước đoạt tự do cá nhân là một trong những hành vi phản đạo đức nhất của công chức và trong quá trình lượng hình, Tòa án bắt buộc phải đánh giá ảnh hưởng xã hội – nhân thân của nạn nhân và người thân, xem đó là yếu tố tăng nặng trong khung phạt.
Điểm chung giữa các hệ thống này là nhận thức sâu sắc rằng hậu quả xã hội – gia đình của hành vi giam giữ trái pháp luật là một chỉ dấu quan trọng để đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội và đòi hỏi chế tài mạnh hơn để bảo đảm tính răn đe và phòng ngừa.
6.2. Một số bài học rút ra từ các cơ chế bảo vệ nhân quyền quốc tế:
Việc quy định tình tiết “làm gia đình người bị giam, giữ ly tán” trong Bộ luật Hình sự Việt Nam có sự tương thích rõ rệt với các chuẩn mực quốc tế về nhân quyền, đặc biệt là:
- Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR năm 1966) mà Việt Nam là thành viên từ năm 1982 có quy định tại Điều 9 và Điều 17 rằng: “Không ai bị bắt hoặc bị giam giữ một cách tùy tiện; mọi người đều có quyền được bảo vệ khỏi sự can thiệp tùy tiện hoặc trái pháp luật vào đời sống gia đình.” Như vậy, việc bắt giữ trái pháp luật không chỉ là hành vi xâm phạm quyền tự do thân thể mà còn là hành vi can thiệp bất hợp pháp vào sự toàn vẹn của đời sống gia đình – điều mà pháp luật hình sự Việt Nam đã phản ánh qua tình tiết “gia đình ly tán”.
- Công ước chống tra tấn (CAT năm 1984) nhấn mạnh rằng việc giam giữ tùy tiện, cách ly người khỏi thân nhân và không cho gia đình biết nơi giam giữ cũng có thể bị coi là hành vi vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người. Điều này tương đồng với quan điểm của pháp luật Việt Nam về việc xử lý nghiêm khắc hành vi làm tan vỡ các mối quan hệ nhân thân do lạm quyền.
- Nguyên tắc cơ bản của Liên Hợp Quốc về đối xử với người bị giam giữ (1990) khẳng định rằng: “Người bị giam giữ có quyền được duy trì mối liên hệ thường xuyên với gia đình.” Khi quyền này bị tước đoạt một cách trái pháp luật, hậu quả không chỉ tác động đến cá nhân bị giam giữ mà còn làm suy yếu nền tảng gia đình – đơn vị cơ bản của xã hội, một giá trị được luật quốc tế bảo vệ đặc biệt.
Như vậy, việc Bộ luật Hình sự Việt Nam thừa nhận “gia đình ly tán” là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cho thấy tính đồng bộ và hội nhập của chính sách hình sự Việt Nam với các nguyên tắc nhân quyền quốc tế, đồng thời thể hiện sự phát triển tiến bộ trong tư duy lập pháp – khi không chỉ trừng phạt hành vi mà còn đánh giá hậu quả xã hội của hành vi đó.
6.3. Một số kinh nghiệp cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam:
Từ việc so sánh và tham chiếu nêu trên, có thể rút ra một số giá trị tham khảo quan trọng cho quá trình hoàn thiện pháp luật hình sự và chính sách tư pháp của Việt Nam:
- Cần cụ thể hóa hơn tiêu chí xác định tình tiết “gia đình ly tán” – chẳng hạn thông qua hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao hoặc Viện kiểm sát nhân dân tối cao – để bảo đảm áp dụng thống nhất trong thực tiễn xét xử. Có thể xem xét tiêu chí như: thời gian ly tán, nguyên nhân trực tiếp từ hành vi giam giữ, mức độ ảnh hưởng đến quan hệ hôn nhân, con cái hoặc khủng hoảng kinh tế – tâm lý.
- Nên mở rộng cơ chế bồi thường dân sự và phục hồi danh dự cho thân nhân người bị giam giữ trái pháp luật, tương tự như các mô hình của Hoa Kỳ và Pháp, nơi gia đình nạn nhân có thể yêu cầu bồi thường độc lập vì thiệt hại tinh thần, hôn nhân tan vỡ hoặc mất nguồn sống.
- Có thể bổ sung hướng dẫn lượng hình quy định rằng: nếu hành vi của người phạm tội dẫn đến tan vỡ hoàn toàn quan hệ hôn nhân, gây tổn thương tâm lý nặng cho con cái hoặc người thân thì đó là tình tiết tăng nặng “đặc biệt nghiêm trọng” cần áp dụng mức phạt cao nhất trong khung.
Việc tiếp thu kinh nghiệm quốc tế không chỉ giúp hoàn thiện chính sách hình sự mà còn khẳng định rằng Việt Nam đang từng bước hội nhập sâu vào trật tự pháp lý toàn cầu, trong đó quyền con người và quyền được bảo vệ đời sống gia đình được đặt ở vị trí trung tâm của mọi thiết chế tư pháp.
THAM KHẢO THÊM: