Tội không tố giác tội phạm được quy định tại Điều 390 Bộ luật Hình sự 2015 là hành vi của người biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không thông báo cho cơ quan có thẩm quyền. Hành vi này xâm phạm đến trật tự pháp luật, nghĩa vụ công dân trong đấu tranh phòng chống tội phạm và bị xử lý hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm pháp đều bị phát hiện, xử lý kịp thời.
Mục lục bài viết
1. Khái quát chung về Tội không tố giác tội phạm:
1.1. Không tố giác tội phạm là gì?
Trong quy định của pháp luật hiện hành, mặc dù không có quy định cụ thể về việc giải thích khái niệm “không tố giác tội phạm” theo dạng định nghĩa; tuy nhiên, căn cứ theo quy định tại Điều 19 Bộ luật Hình sự năm 2015 và quy định về khái niệm của “tố giác về tội phạm” được quy định tại Điều 144 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì có thể hiểu:
“Không tố giác tội phạm” là việc biết mà không báo, phát hiện hành vi phạm tội mà coi như không biết, im lặng, không trình báo cho cơ quan chức năng được biết để xử lý. Việc phát hiện tội phạm có thể diễn ra khi người phạm tội đang trong quá trình chuẩn bị thực hiện hành vi phạm tội hoặc trong khi hành vi phạm tội đang được thực hiện hoặc đã thực hiện xong.
Tố giác tội phạm được xem xét như một nghĩa vụ bắt buộc của công dân phát sinh ngay sau khi một người biết, phát hiện về việc thực hiện hành vi phạm tội của người khác. Nó thể hiện trách nhiệm của công dân trong việc phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm.
Khi một người tình cờ hoặc bằng cách nào đó biết/chứng kiến hành vi phạm tội của người khác đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện xong, mặc dù họ có đủ điều kiện để thực hiện việc tố giác tội phạm nhưng đã cố tình không tố giác tội phạm, hay trình báo sự việc lên cơ quan có thẩm quyền thì trường hợp này, họ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “không tố giác tội phạm” trừ một số trường hợp nhất định theo quy định của khoản 2 và khoản 3 Điều 19 Điều 390 Bộ luật hình sự năm 2015.
Có thể đưa ra khái niệm về Tội không tố giác tội phạm như sau:
“Tội không tố giác tội phạm là hành vi của người biết rõ việc chuẩn bị phạm tội, đang phạm tội hoặc đã thực hiện tội phạm nhưng cố ý không tố giác cho cơ quan có thẩm quyền biết, khi không thuộc trường hợp được pháp luật miễn trách nhiệm.”
1.2. Ý nghĩa:
- Thứ nhất: Bảo đảm hiệu quả của công tác phòng, chống tội phạm. Quy định Tội không tố giác tội phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường khả năng phát hiện và ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội. Khi mọi công dân đều ý thức được nghĩa vụ tố giác, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ nhận được nhiều nguồn tin chính xác, sớm phát hiện tội phạm, góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ trật tự, an toàn xã hội.
- Thứ hai: Góp phần củng cố nguyên tắc pháp chế và ý thức thượng tôn pháp luật. Tội không tố giác tội phạm thể hiện tính nghiêm minh và đồng bộ của hệ thống pháp luật hình sự, buộc mọi cá nhân phải tôn trọng, bảo vệ pháp luật và không thể thờ ơ trước cái sai, cái ác. Việc xử lý hình sự hành vi này góp phần xây dựng ý thức cộng đồng về trách nhiệm công dân, tăng cường niềm tin vào công lý và củng cố nguyên tắc “không ai được đứng ngoài pháp luật” trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Thứ ba: Bảo đảm sự cân bằng giữa nghĩa vụ pháp lý và đạo đức xã hội. Pháp luật hình sự Việt Nam khi quy định tội danh này đã thể hiện sự nhân văn và hợp lý trong chính sách hình sự khi miễn trách nhiệm cho người thân thích của người phạm tội, trừ trường hợp liên quan đến tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc xâm phạm an ninh quốc gia. Quy định này giúp bảo đảm hài hòa giữa nghĩa vụ pháp lý và tình cảm đạo đức tự nhiên trong gia đình, tránh biến nghĩa vụ tố giác thành gánh nặng đạo đức khó thực hiện đối với các quan hệ thân thích gần gũi.
1.3. Cơ sở pháp lý:
Tội không tố giác tội phạm hiện nay đang được quy định tại Điều 390 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào biết rõ một trong các tội phạm quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 14 của Bộ luật này đang được chuẩn bị hoặc một trong các tội phạm quy định tại Điều 389 của Bộ luật này đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 19 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Người không tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội không tố giác tội phạm:
Trong quy định pháp luật hình sự hiện hành, tộidanh này được quy định cụ thể tại Điều 390 Bộ luật hình sự năm 2015. Trên cơ sở quy định về tội này trong các văn bản pháp luật hình sự nêu trên, có thể xác định cấu thành tội phạm của Tội không tố giác tội phạm như sau:
2.1. Mặt khách quan:
Một người có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội không tố giác tội phạm nếu như họ có hành vi không “tố giác” – tức là không thông báo cho cơ quan có thẩm quyền biết về việc phạm tội của người khác khi họ là người phát hiện và biết rõ hành vi phạm tội này, dù hành vi phạm tội đó đang ở giai đoạn chuẩn bị thực hiện, đã được thực hiện hay đang trong quá trình thực hiện.
Trong trường hợp này, hành vi phạm tội được thể hiện dưới dạng “không hành động”, tức là không thực hiện hành vi “tố giác” hay “trình báo” với cơ quan thẩm quyền khi phát giác về sự việc phạm tội.
Tuy nhiên, không phải trường hợp nào, cứ biết về việc phạm tội của người khác mà không báo, không tố giác cho cơ quan có thẩm quyền biết là đều được xác định là phạm tội “không tố giác tội phạm” theo quy định của Bộ luật hình sự 2015. Bởi căn cứ theo quy định tại Điều 390 Bộ luật hình sự năm 2015 thì người thực hiện hành vi không “tố giác” hành vi phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội không tố giác tội phạm nếu tội phạm mà họ không tố giác thuộc một trong các tội sau đây:
Các tội được quy định trong Bộ luật Hình sự tại các Điều 108, đến Điều 123, Điều 134, Điều 207, Điều 299, Điều 300, đến Điều 303 và Điều 324, Điều 109, các khoản 2, 3 và 4 Điều 141, Điều 142, Điều 144, khoản 2 và khoản 3 Điều 146, các khoản 1, 2 và 3 Điều 150, các điều 151, 152, 153 và 154; Điều 168, Điều 169, các khoản 2, 3 và 4 Điều 173, các khoản 2, 3 và 4 Điều 174, các khoản 2, 3 và 4 Điều 175, các khoản 2, 3 và 4 Điều 178; Khoản 3 và khoản 4 Điều 188, khoản 3 Điều 189, khoản 2 và khoản 3 Điều 190, khoản 2 và khoản 3 Điều 191, khoản 2 và khoản 3 Điều 192, các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 193, các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 194, các khoản 2, 3 và 4 Điều 195, khoản 2 và khoản 3 Điều 196, khoản 3 Điều 205, các khoản 2, 3 và 4 Điều 206, Điều 208, khoản 2 và khoản 3 Điều 219, khoản 2 và khoản 3 Điều 220, khoản 2 và khoản 3 Điều 221, khoản 2 và khoản 3 Điều 222, khoản 2 và khoản 3 Điều 223, khoản 2 và khoản 3 Điều 224; Khoản 2 và khoản 3 Điều 243; Điều 248, 249, 250, 251, 252 và 253, khoản 2 Điều 254, các điều 255, 256, 257 và 258, khoản 2 Điều 259; các khoản 2, 3 và 4 Điều 265, các điều 282, các khoản 2, 3 và 4 Điều 305, các khoản 2, 3 và 4 Điều 309, các khoản 2, 3 và 4 Điều 311, khoản 2 và khoản 3 Điều 329; Các khoản 2, 3 và 4 Điều 353, các khoản 2, 3 và 4 Điều 354, các khoản 2, 3 và 4 Điều 355, khoản 2 và khoản 3 Điều 356, các khoản 2, 3 và 4 Điều 357, các khoản 2, 3 và 4 Điều 358, các khoản 2, 3 và 4 Điều 359, các khoản 2, 3 và 4 Điều 364, các khoản 2, 3 và 4 Điều 365; khoản 3 và khoản 4 Điều 373, khoản 3 và khoản 4 Điều 374, khoản 2 Điều 386; điều 421, 422, 423, 424 và 425.
Hành vi phạm tội của tội không tố giác tội phạm thể hiện thái độ hờ hững, vô tâm, phó mặc trước các quan hệ xã hội đang bị tội phạm xâm hại, dẫn đến việc gây khó khăn trong việc phát hiện, ngăn ngừa, xử lý hành vi phạm tội và có thể dẫn đến việc bỏ sót tội phạm.
2.2. Mặt chủ quan:
Tội không tố giác tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý.
Tức là người phạm tội hoàn toàn nhận thức được rằng việc “không tố giác tội phạm” của mình sẽ gây nguy hại cho xã hội, ảnh hưởng đến việc cơ quan công an phát hiện, ngăn ngừa và phòng chống tội phạm, dẫn đến việc hành vi phạm tội có thể hoàn thành trên thực tế, dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm… nhưng họ vẫn cố tình không khai báo, không trình báo cho cơ quan có thẩm quyền được biết.
Việc không khai báo, không tố giác tội phạm của người này đã thể hiện thái độ thờ ơ, lãnh đạm trước những hành vi phạm tội đang xảy ra, ảnh hưởng đến trật tự xã hội, và việc đấu tranh phòng chống tội phạm.
2.3. Khách thể:
Tội không tố giác tội phạm xâm phạm đến quan hệ giữa công dân với cơ quan có thẩm quyền trong quá trình phòng chống tội phạm. Cụ thể, hành vi không tố giác tội phạm là hành vi vi phạm trách nhiệm bắt buộc của công dân trong phòng ngừa và đấu tranh đối với tội phạm, đồng thời làm ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền như Công an trong việc tiếp nhận thông tin, phát hiện tội phạm.
2.4. Chủ thể:
Chủ thể của Tội không tố giác tội phạm được xác định là bất kỳ người nào đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Trong đó, căn cứ theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015 thì chủ thể đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, được xác định là đối tượng chủ thể của Tội không tố giác tội phạm là những người từ đủ 16 tuổi trở lên.
Tuy nhiên, căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 19 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì một số người không được xác định là chủ thể của Tội không tố giác tội phạm mặc dù họ có hành vi phát hiện và biết rõ việc phạm tội chuẩn bị xảy ra, đang xảy ra hoặc đã xảy ra nhưng cố tình không tố giác tội phạm lên cơ quan có thẩm quyền. Cụ thể, đó là những chủ thể sau:
Ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ/chồng của người phạm tội, trừ trường hợp không tố giác các tội xâm phạm đến an ninh quốc gia, và các tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng theo quy định tại Điều 389 Bộ luật hình sự năm 2015. Trong đó:
Các tội đặc biệt nghiêm trọng theo quy định tại Điều 9 Bộ luật Hình sự năm 2015 là những tội có tính chất phạm tội và mức độ nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến trật tự xã hội, quan hệ xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt áp dụng cho tội ấy mà Bộ luật hình sự quy định là trên 15 năm tù trở lên đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Còn các tội xâm phạm đến an ninh quốc gia là những trường hợp tội phạm xâm phạm trực tiếp đến hệ thống chính quyền, chủ quyền, sự độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, chế độ chính trị của mỗi quốc gia, mà cụ thể ở đây là đất nước Việt Nam và được quy định tại Chương XIII Bộ luật Hình sự năm 2015 dưới các tội danh như: Tội phản bội Tổ quốc, Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, Tội gián điệp, Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ, Tội phá rối an ninh, Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân…
Trên cơ sở quy định tại khoản 2 Điều 19 Bộ luật Hình sự năm 2015 được trích dẫn ở trên, trường hợp một người có hành vi phạm tội về các Tội xâm phạm an ninh quốc gia hay các tội đặc biệt nghiêm trọng được liệt kê tại Điều 389 Bộ luật Hình sự năm 2015 mà ông, bà, cha, mẹ hoặc con, cháu, anh chị em ruột hoặc vợ/chồng của người này biết về hành vi phạm tội của người này nhưng vì tình nghĩa vì lo lắng cho người phạm tội này mà cố ý không tố giác tội phạm mặc dù có đủ điều kiện để tố giác thì trường hợp này, những người thân này của người phạm tội này sẽ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội không tố giác tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự.
Người bào chữa nếu trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bào chữa, họ phát hiện được hành vi phạm tội do người mà họ bào chữa – “thân chủ” của họ đã thực hiện hoặc đã tham gia cùng thực hiện nhưng cố tình không tố giác tội phạm lên cơ quan có thẩm quyền, trừ trường hợp tội phạm mà họ không tố giác là các tội xâm phạm đến an ninh quốc gia (được quy định tại chương XIII Bộ luật Hình sự năm 2015) và các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác theo quy định tại Điều 389 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội đối với một trong các tội xâm phạm ninh quốc gia được quy định tại Chương XIII và các tội theo quy định tại Điều 389 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi mà người bào chữa trong quá trình thực hiện việc bào chữa cho người phạm tội này đã phát hiện nhưng cố tình không tố giác tội phạm thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội không tố giác tội phạm theo quy định tại Điều 390 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi.
3. Khung hình phạt của Tội không tố giác tội phạm:
Tội không tố giác tội phạm theo Điều 390 Bộ luật Hình sự 2015 gồm những khung hình phạt như sau:
- Khung hình phạt chính: Phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Trường hợp miễn trách nhiệm hình sự: Người không tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt.
Nhận xét:
- Điểm mới nổi bật của Bộ luật Hình sự năm 2015 so với Bộ luật Hình sự năm 1999 là bổ sung thêm một chủ thể đặc thù trong quy định về tội không tố giác tội phạm, đó là người bào chữa. Theo quy định hiện hành, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nếu người bào chữa phát hiện hoặc có căn cứ xác đáng cho rằng người được bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện tội phạm thuộc Chương XIII (các tội xâm phạm an ninh quốc gia) hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng khác mà không tố giác thì phải chịu trách nhiệm hình sự.
- Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm cho thấy có những trường hợp người bào chữa, trong quá trình hành nghề, biết rõ thân chủ của mình đang chuẩn bị hoặc đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng vì lợi ích của người được bào chữa mà không tố giác hành vi đó. Việc buộc người bào chữa phải tố giác trong mọi trường hợp là không thực tế và mâu thuẫn với nghĩa vụ bảo mật thông tin của họ đối với thân chủ.
Chính vì vậy, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định theo hướng nhân văn, cân bằng và hợp lý hơn: Người bào chữa chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm trong những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, cụ thể là không tố giác các tội thuộc Chương XIII (các tội xâm phạm an ninh quốc gia) hoặc tội phạm khác là tội đặc biệt nghiêm trọng. Quy định này vừa đảm bảo yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia và lợi ích công, vừa giữ vững nguyên tắc bảo mật nghề nghiệp và quyền bào chữa – những giá trị cốt lõi của hoạt động tư pháp hiện đại.
4. Phân biệt Tội không tố giác tội phạm với :
Tiêu chí | Tội che giấu tội phạm (Điều 389 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội không tố giác tội phạm (Điều 390 Bộ luật Hình sự 2015) |
---|---|---|
Khái niệm | Là hành vi của người không hứa hẹn trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện, đã che giấu người phạm tội, tang vật, dấu vết của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội. | Là hành vi của người biết rõ việc chuẩn bị phạm tội, đang phạm tội hoặc đã phạm tội, nhưng không tố giác với cơ quan có thẩm quyền, mặc dù có điều kiện, khả năng thực hiện việc tố giác đó. |
Bản chất pháp lý | Là hành vi giúp đỡ, dung túng cho người phạm tội nhằm che đậy hậu quả, xóa dấu vết hoặc cản trở hoạt động tố tụng. | Là hành vi thụ động, không hợp tác với cơ quan tố tụng, thể hiện thái độ thờ ơ, bao che hoặc dung túng gián tiếp đối với tội phạm. |
Nhận thức của người phạm tội | Không biết trước hành vi phạm tội và không có sự thỏa thuận, hứa hẹn trước với người phạm tội. Sau khi biết tội phạm đã xảy ra, mới nảy sinh ý định che giấu. | Biết rõ từ trước, trong hoặc sau khi hành vi phạm tội xảy ra mà vẫn cố ý không thông báo, không tố giác cho cơ quan có thẩm quyền. |
Thời điểm thực hiện hành vi phạm tội | Hành vi che giấu xảy ra sau khi tội phạm đã được thực hiện, tức là sau khi hậu quả tội phạm đã xảy ra. | Có thể xảy ra ở bất kỳ giai đoạn nào của hành vi phạm tội khác khi đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc sau khi thực hiện xong. |
Hành vi khách quan | Bao gồm các hành vi:
| Bao gồm các hành vi:
|
Mức độ chủ động trong hành vi | Chủ động can thiệp, có hành động cụ thể nhằm che đậy, cản trở công lý. | Thụ động, chỉ không thực hiện nghĩa vụ tố giác, không có hành vi tích cực hỗ trợ người phạm tội. |
Hậu quả pháp lý | Gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, làm giảm hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm. | Làm mất cơ hội ngăn chặn tội phạm kịp thời, dẫn đến kéo dài hoặc gia tăng hậu quả của tội phạm. |
Đối tượng tác động | Đối tượng bị che giấu có thể là người phạm tội, tang vật, dấu vết, phương tiện phạm tội hoặc thông tin liên quan đến vụ án. | Không có đối tượng trực tiếp bị tác động, mà tác động gián tiếp đến hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng và trật tự pháp luật. |
Mức hình phạt | Khung 1: Cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc tù từ 6 tháng đến 5 năm. Khung 2: Phạt tù từ 2 đến 7 năm nếu phạm tội trong khi lợi dụng chức vụ, quyền hạn. | Một khung hình phạt duy nhất: Cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc tù từ 6 tháng đến 3 năm. |
Tính chất nguy hiểm cho xã hội | Nguy hiểm cao hơn vì người phạm tội chủ động cản trở công lý, gây khó khăn trực tiếp cho quá trình điều tra, xử lý. | Mức độ nguy hiểm thấp hơn do hành vi mang tính thụ động, thiếu tinh thần trách nhiệm công dân. |
Quan hệ với tội phạm gốc | Chỉ phát sinh sau khi tội phạm gốc đã hoàn thành. Tội che giấu có tính phụ thuộc tương đối vào tội phạm gốc. | Có thể phát sinh trước, trong hoặc sau khi tội phạm gốc xảy ra, không phụ thuộc vào việc tội phạm gốc đã được điều tra hay chưa. |
5. Bản án điển hình của Tội không tố giác tội phạm:
- Tên bản án:
Bản án 16/2017/HSST ngày 29/05/2017 về tội không tố giác tội phạm ngày 29/05/2017 của Tòa án nhân dân huyện Cái Nước, tỉnh Cà mau.
- Nội dung vụ án:
Vào khoảng 19 giờ ngày 07/9/2009 Trần Văn X dùng phương tiện võ composite và máy kuta 3 của ông Trần Ngọc Em là cha ruột của X mua cho X để hành nghề đò bao chở khách, chở Trần Văn CH, Trịnh Văn Th, Cô Sống Mãi (Cô Tấn Mãi), Lê Văn Bu và Trần Văn Đ đi từ thị trấn Cái Nước vào nhà của Trần Văn Đ để đêm đó đến nhà anh Nguyễn Kế H ở ấp Cái Hàng, xã Tân Hưng Đông huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau để thực hiện hành vi cướp tài sản theo bàn bạc từ lúc nhậu tại quán nhậu 171. Đến 00 giờ 20 phút ngày 08/9/2009 CH, Mãi, Th, Bu đến nhà anh H khống chế vợ chồng anh H và một người con 07 (bảy) tuổi của anh H và chị H bằng dao thái lan để cướp tài sản. Tổng giá trị tài sản của anh H, chị H bị cướp được định giá là 19.427.500 đồng, sau khi cướp xong Bu, Th, Mãi và CH được chia mỗi người 3.000.000 đồng, riêng Đ và X được chia mỗi người 1.000.000 đồng. Sau khi sự việc xảy ra đến ngày 09/9/2009 Cô Sống Mãi (Tấn Mãi) đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cái Nước đầu thú, ngày 10/9/2009 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cái Nước bắt khẩn cấp đối với Trịnh Văn Th.
Đến ngày 18/9/2009 Trần Văn CH ra đầu thú tại Cơ quan điều tra Công an huyện Cái Nước và đã bị xử lý xong tại bản án hình sự sơ thẩm số 29/2010/HSST ngày 14/6/2010 của Tòa án nhân dân huyện Cái Nước. Còn Lê Văn Bu, Trần Văn Đ và Trần Văn X bỏ trốn, đến ngày 27/9/2010 Bu đầu thú, ngày 10/9/2014 Trần Văn Đ bị bắt truy nã. Hành vi của Lê Văn Bu đã bị xử lý tại bản án hình sự phúc thẩm số139/2011/HSPT của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau.
Hành vi của Trần Văn Đ đã bị xử lý tại bản án hình sự sơ thẩm số 18/2014/HSST ngày 06/4/2015 của Tòa án nhân dân huyện Cái Nước. Đến ngày 23/8/2015 thì Trần Văn X bị Công an huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh bắt theo lệnh truy nã số 02 ngày 20/01/2011 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công anhuyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau và chuyển sang tạm giam cho đến nay.
- Quyết định của Tòa án:
+ Tuyên bố Bị cáo Trần Văn X phạm tội “Không tố giác tội phạm”.
+ Bị cáo Trần Văn X 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị cáo bị bắt truy nã và tạm giam 23/8/2015.
THAM KHẢO THÊM: