Trong hoạt động tư pháp, việc thi hành nghiêm chỉnh các bản án và quyết định của Tòa án có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Thực tế, có những trường hợp người có nghĩa vụ cố tình không thực hiện phán quyết đã có hiệu lực, gây cản trở cho quá trình thi hành án và xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định Tội không chấp hành án tại Điều 380 nhằm bảo vệ hiệu lực của bản án, giữ vững kỷ cương pháp luật và bảo đảm sự tôn nghiêm của cơ quan tư pháp.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát chung về Tội không chấp hành án:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội không chấp hành án:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội không chấp hành án:
- 4 4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội không chấp hành án:
- 5 5. Phân biệt với Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng:
- 6 6. Bản án điển hình của Tội không chấp hành án:
1. Khái quát chung về Tội không chấp hành án:
1.1. Khái niệm:
Trong Nhà nước pháp quyền, bản án và quyết định của Tòa án là biểu hiện cao nhất của quyền tư pháp, có giá trị bắt buộc thi hành đối với mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân. Tuy nhiên trên thực tế, không ít trường hợp người có nghĩa vụ cố tình trì hoãn, trốn tránh hoặc không chấp hành bản án, quyết định của Tòa án dù đã có hiệu lực pháp luật. Chính vì vậy, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định Tội không chấp hành án tại Điều 380 nhằm bảo đảm hiệu lực thi hành của các phán quyết tư pháp và duy trì trật tự pháp luật.
“Tội không chấp hành án là hành vi cố ý không thực hiện bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, mặc dù người phạm tội có đủ điều kiện để thi hành, và đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà vẫn tiếp tục vi phạm. Hành vi này thể hiện thái độ coi thường pháp luật, trực tiếp xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan tiến hành tố tụng, làm cản trở việc thực thi các phán quyết của Tòa án – vốn là biểu hiện của quyền lực Nhà nước trong lĩnh vực tư pháp.”
1.2. Ý nghĩa:
- Thứ nhất, bảo đảm hiệu lực thi hành của bản án và quyết định của Tòa án. Tội không chấp hành án khẳng định nguyên tắc tối thượng của pháp luật – mọi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực đều phải được tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh. Việc xử lý hình sự hành vi không chấp hành án góp phần bảo đảm tính bắt buộc và cưỡng chế của bản án cũng như củng cố niềm tin của nhân dân vào cơ quan tư pháp và hệ thống pháp luật.
- Thứ hai, bảo vệ hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng. Hành vi không chấp hành án làm cản trở hoạt động thi hành án, gây quá tải cho cơ quan chức năng, kéo dài các vụ việc dân sự, hình sự, hành chính. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người cố tình chống đối giúp ngăn ngừa hành vi cản trở và bảo vệ tính nghiêm minh, trật tự trong hoạt động của cơ quan tư pháp.
- Thứ ba, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án. Khi một bản án có hiệu lực, người được thi hành án có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ đã được tuyên. Hành vi không chấp hành án xâm phạm trực tiếp đến quyền tài sản, quyền nhân thân và quyền được bảo vệ công lý của người được thi hành án. Vì vậy, việc xử lý nghiêm minh là biện pháp bảo vệ quyền công dân và công lý xã hội.
- Thứ tư, góp phần giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm. Tội không chấp hành án được quy định không chỉ nhằm trừng phạt hành vi vi phạm mà còn có ý nghĩa răn đe, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật, nâng cao tinh thần trách nhiệm và ý thức thi hành nghĩa vụ pháp lý của mỗi công dân. Qua đó, pháp luật hình sự góp phần xây dựng nền tư pháp liêm chính, hiệu lực và thực chất.
1.3. Cơ sở pháp lý:
Tội không chấp hành án hiện nay đang được quy định tại Điều 380 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào có điều kiện mà không chấp hành bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
a) Chống lại chấp hành viên hoặc người đang thi hành công vụ;
b) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
c) Tẩu tán tài sản.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội không chấp hành án:
2.1. Khách thể:
Không chấp hành án là hành vi cố ý không thực hiện bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù người có nghĩa vụ đủ điều kiện để thi hành. Hành vi này thể hiện thái độ coi thường pháp luật và chống lại hiệu lực của các phán quyết tư pháp, làm ảnh hưởng trực tiếp đến tính nghiêm minh của nền tư pháp và trật tự pháp luật trong xã hội.
Tội không chấp hành án là hành vi xâm phạm đến hoạt động đúng đắn, bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng; đồng thời xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân được thi hành án. Đây là tội phạm mang tính cản trở công lý, gây suy giảm hiệu quả thực thi pháp luật và niềm tin của người dân vào hệ thống tư pháp.
Đối tượng tác động của tội phạm này chính là bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Bản án của Tòa án là văn bản tố tụng do Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành, ghi nhận kết quả xét xử và xác định rõ quyền, nghĩa vụ pháp lý của các bên.
Trong khi đó, quyết định của Tòa án là văn bản tố tụng mang tính quyền lực nhà nước, được ban hành trong quá trình giải quyết vụ việc hoặc sau khi bản án đã có hiệu lực nhằm tổ chức thi hành, bảo đảm thực hiện bản án hoặc các biện pháp tư pháp khác. Các quyết định này có thể do Hội đồng xét xử hoặc một Thẩm phán ban hành như: quyết định hòa giải thành, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định kê biên tài sản, quyết định thi hành án phạt tù, quyết định bắt buộc chữa bệnh…
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi thuộc mặt khách quan của Tội không chấp hành án là hành vi cố ý không thực hiện bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, mặc dù người đó đủ điều kiện thi hành và đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà vẫn tiếp tục vi phạm.
Hành vi không chấp hành án có thể được thực hiện dưới hai hình thức: Hành động và không hành động.
Thứ nhất, hành vi không hành động. Đây là trường hợp người có nghĩa vụ thi hành án cố ý không thực hiện việc mà họ buộc phải làm và hoàn toàn có khả năng thực hiện. Như:
- Không nộp tiền bồi thường cho cơ quan thi hành án để chi trả cho người bị hại theo bản án đã tuyên;
- Không giao nộp tài sản bị tịch thu sung công quỹ Nhà nước;
- Không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng hoặc thanh toán các khoản nợ, chi phí theo quyết định của bản án.
Hành vi này thể hiện sự chống đối thụ động, tuy không có biểu hiện bạo lực nhưng trực tiếp cản trở hiệu lực thi hành của bản án, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bên được thi hành án.
Thứ hai, hành vi hành động. Khác với hành vi không hành động, người phạm tội có thể chủ động thực hiện những hành vi nhằm trốn tránh, cản trở hoặc vô hiệu hóa việc thi hành án. Như:
- Bỏ trốn khỏi nơi cư trú;
- Cố tình tránh mặt khi cơ quan thi hành án đến làm việc;
- Khóa cửa không cho thi hành án hoặc tẩu tán tài sản;
- Hoặc che giấu tài sản bị kê biên, có hành vi chửi bới, lăng mạ, thậm chí hành hung lực lượng thi hành án.
Những hành vi này thể hiện sự coi thường pháp luật, thái độ chống đối công khai, gây khó khăn, thậm chí làm tê liệt quá trình thi hành án.
Hậu quả của hành vi phạm tội là làm cho bản án hoặc quyết định của Tòa án không thể hoặc chưa thể được thi hành, ảnh hưởng trực tiếp đến tính nghiêm minh của pháp luật và uy tín của cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm (cấu thành hình thức). Chỉ cần có hành vi cố ý không chấp hành án khi đã bị cưỡng chế hoặc xử phạt hành chính mà còn vi phạm thì tội phạm đã được coi là hoàn thành.
2.3. Mặt chủ quan:
Tội không chấp hành án được thực hiện với lỗi cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp.
Tức là người phạm tội nhận thức được hậu quả cũng như hành vi mình thực hiện là trái pháp luật nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi đó hoặc dù không mong muốn hậu quả xảy ra nhưng có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra.
Động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Dù người phạm tội với động cơ nào đi nữa thì hành vi không chấp hành án vẫn cấu thành tội phạm. Đối với tội phạm này, người phạm tội chủ yếu là vì động cơ cá nhân.
2.4. Chủ thể:
Chủ thể của Tội không chấp hành án không phải là chủ thể đặc biệt. Nhưng cũng chỉ có những người có nghĩa vụ trong việc chấp hành bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mới có thể là chủ thể của tội phạm này.
Những người có nghĩa vụ trong việc chấp hành bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật là những người mà theo quy định của pháp luật họ phải có nghĩa vụ chấp hành như: Bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự; đương sự trong các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình; các vụ án kinh tế, hành chính, lao động.
Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên (Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015).
3. Khung hình phạt của Tội không chấp hành án:
Tội không chấp hành án theo Điều 380 Bộ luật Hình sự 2015 gồm những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội không chấp hành án:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội không chấp hành án được quy định tại khoản 2 Điều 380 Bộ luật Hình sự 2015 với khung hình phạt là phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
- Chống lại chấp hành viên hoặc người đang thi hành công vụ: Đây là tình tiết tăng nặng phản ánh tính chất bạo lực và cản trở trực tiếp hoạt động thi hành án của cơ quan có thẩm quyền. Hành vi “chống lại” có thể thể hiện dưới nhiều hình thức như đe dọa, lăng mạ, cản trở hoặc sử dụng vũ lực, vũ khí, hung khí nhằm ngăn cản chấp hành viên, cảnh sát hỗ trợ tư pháp hoặc cán bộ thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ. Hành vi này không chỉ xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan thi hành án mà còn đe dọa trật tự pháp luật, tính nghiêm minh của bản án đã có hiệu lực. Việc quy định tình tiết này nhằm bảo vệ an toàn cho người thi hành công vụ; đồng thời răn đe, ngăn chặn các hành vi coi thường pháp luật và cản trở việc thực thi công lý.
- Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt: Tình tiết này phản ánh mức độ nguy hiểm cao hơn của hành vi phạm tội do tính chất gian dối, có tính toán và tổ chức. Người phạm tội trong trường hợp này không chỉ đơn thuần từ chối thi hành án mà còn chủ động sử dụng mưu mẹo, kỹ thuật, công cụ hoặc lợi dụng kẽ hở pháp luật để trốn tránh nghĩa vụ thi hành bản án. Những hành vi này làm kéo dài quá trình thi hành án, gây khó khăn cho cơ quan chức năng và ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi hành án. Vì vậy, pháp luật quy định mức hình phạt cao hơn để đảm bảo tính răn đe, trừng trị đối với các hành vi cố ý, có tổ chức, có kế hoạch trốn tránh nghĩa vụ.
- Tẩu tán tài sản: Đây là một trong những hành vi phổ biến và nguy hiểm nhất trong tội không chấp hành án. Tình tiết này được hiểu là hành vi chuyển nhượng, che giấu, tiêu hủy hoặc thay đổi hình dạng, quyền sở hữu tài sản nhằm trốn tránh việc thi hành bản án – thường là các bản án dân sự, kinh tế hoặc hành chính có liên quan đến nghĩa vụ tài chính. Người phạm tội có thể bán tài sản cho người khác, chuyển quyền sở hữu cho người thân, rút tiền khỏi tài khoản, chuyển ra nước ngoài hoặc hủy chứng cứ tài sản… Hành vi này xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án, gây khó khăn cho cơ quan thi hành án trong việc bảo đảm tính cưỡng chế của bản án. Tình tiết này thể hiện ý chí trốn tránh pháp luật một cách cố ý và có tổ chức; do đó bị coi là tình tiết tăng nặng đặc biệt, phản ánh thái độ coi thường pháp luật và gây hậu quả nghiêm trọng cho công tác thi hành án, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân vào tính nghiêm minh và hiệu lực của Tòa án.
5. Phân biệt với Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng:
Tiêu chí | Tội không chấp hành án | Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng |
Cơ sở pháp lý | Điều 380 Bộ luật Hình sự 2015. | Điều 186 Bộ luật Hình sự 2015. |
Khách thể tội phạm | Xâm phạm hoạt động tư pháp. Cụ thể là trật tự quản lý trong việc chấp hành bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. | Xâm phạm nghĩa vụ quan hệ gia đình. Cụ thể là được cấp dưỡng từ người có nghĩa vụ cấp dưỡng. |
Điều kiện truy cứu | Có điều kiện chấp hành bản án hoặc quyết định có hiệu lực của Tòa án nhưng không chấp hành mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà vẫn vi phạm. | Có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng mà từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng làm cho người được cấp dưỡng lâm tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà vẫn còn vi phạm. |
Chủ thể của tội phạm | Người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự, đồng thời có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực. | Người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự, đồng thời có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định pháp luật. |
Lỗi | Cả 02 tội danh đều được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. | |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 05 năm. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. | Một khung hình phạt duy nhất: Phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. |
6. Bản án điển hình của Tội không chấp hành án:
- Tên bản án:
Bản án về tội không chấp hành án số 07/2024/HS-PT ngày 29/03/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái.
- Nội dung vụ án:
Bị cáo Trần Trung H và vợ là Giáp Thị Hồng N ly hôn theo Bản án số: 09/2022/HNGĐ – ST ngày 12/4/2022 của Toà án nhân dân huyện Y, tỉnh Yên Bái. Theo quyết định của bản án này, chị Giáp Thị Hồng N được giao cho trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con chung là cháu Trần Trung Q, sinh ngày 11/12/2019. Tại thời điểm xét xử vụ án ly hôn, cháu Trần Trung Q đang do Trần Trung H nuôi dưỡng.
Sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, ngày 16-5-2022 chị Giáp Thị Hồng N gửi đơn đề nghị Chi cục Thi hành án dân sự huyện Y, tỉnh Yên Bái thi hành phần quyết định về giao con chung theo bản án số: 09/2022/HNGĐ – ST ngày 12/4/2022 của Toà án nhân dân huyện Y, tỉnh Yên Bái. Chi cục Thi hành án dân sự huyện Y, tỉnh Yên Bái đã ban hành Quyết định số: 210/CCTHADS ngày 19/5/2022 để thi hành án theo yêu cầu. Chấp hành viên chi cục Thi hành án dân sự huyện Y đã giao quyết định nêu trên cho Trần Trung H và nhiều lần triệu tập Trần Trung H lên làm việc để tự nguyện thi hành án, nhưng Trần Trung H không chấp hành.
Ngày 13/12/2022, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Y đã ban hành Quyết định số: 01/QĐ – CCTHADS để cưỡng chế thi hành án đối với Trần Trung H. Do Trần Trung H không có mặt tại địa phương, nên Quyết định này đã được giao cho bố đẻ Trần Trung H là ông Trần Trung H1, đồng thời được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật. Vì Trần Trung H và gia đình vắng mặt tại địa phương, nên buổi cưỡng chế thi hành án ngày 21/12/2022 không thực hiện được. Ngày 05/01/2023, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Y đã phối hợp với UBND xã V, huyện Y và các đoàn thể tiếp tục vận động Trần Trung H tự nguyện chấp hành việc thi hành án giao con cho chị Giáp Thị Hồng N trực tiếp nuôi dưỡng theo quyết định của bản án đã có hiệu lực pháp luật. Nhưng Trần Trung H không chấp hành.
Ngày 16/01/2023, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh Yên Bái đã ban hành Quyết định số: 01/QĐ – CTHADS xử phạt vi phạm hành chính đối với Trần Trung H về hành vi “Không thực hiện công việc phải làm theo bản án, quyết định” với mức phạt tiền là 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng). Sau khi được thông báo hợp lệ về việc bị xử phạt vi phạm hành chính, Trần Trung H không thực hiện việc thi hành bản án và nộp phạt.
Ngày 06/4/2023, Trần Trung H chuyển hộ khẩu từ thôn Đ, xã V, huyện Y, tỉnh Yên Bái đến thôn 19, xã K, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Cháu Trần Trung Q vẫn ở với gia đình ông Trần Trung H1 (Là ông bà nội) tại thôn Đ, xã V, huyện Y, tỉnh Yên Bái. Do Trần Trung H không có mặt tại địa phương, nên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Y không thể tổ chức cưỡng chế thi hành án theo văn bản số: 126/CCTHADS ngày 28/3/2023 (Thời gian cưỡng chế theo kế hoạch vào tháng 4/2/2023).
- Quyết định của Tòa án:
+ Tuyên bố bị cáo Trần Trung H phạm tội “Không chấp hành án”.
+ Xử phạt bị cáo Trần Trung H 09 (Chín) tháng cải tạo không giam giữ.
THAM KHẢO THÊM: