Trong xã hội hiện nay, lợi dụng niềm tin tâm linh để hành nghề mê tín, dị đoan như bói toán, gọi hồn, yểm bùa, chữa bệnh bằng phù phép… đang gây nhiều hệ lụy xấu cho cá nhân và cộng đồng. Hiện nay, Điều 320 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định cụ thể về Tội hành nghề mê tín, dị đoan và coi đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội cần được xử lý nghiêm khắc.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát chung về Tội hành nghề mê tín, dị đoan:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội hành nghề mê tín, dị đoan:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội hành nghề mê tín, dị đoan:
- 4 4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội hành nghề mê tín, dị đoan:
- 5 5. Phân biệt tín ngưỡng và mê tín dị đoan:
- 6 6. Tổ chức hoạt động mê tín, dị đoan bị xử phạt như thế nào?
1. Khái quát chung về Tội hành nghề mê tín, dị đoan:
1.1. Khái niệm:
Trong đời sống tinh thần của người Việt từ trước đến nay thì tín ngưỡng, tôn giáo và các hoạt động tâm linh là nét văn hóa truyền thống lâu đời góp phần định hướng đạo đức và niềm tin của con người. Tuy nhiên bên cạnh những giá trị tích cực, vẫn tồn tại hiện tượng lợi dụng niềm tin tâm linh để hành nghề mê tín, dị đoan gây ảnh hưởng xấu đến nhận thức, sức khỏe, tài sản của người dân và trật tự xã hội.
Để ngăn chặn cũng như xử lý nghiêm các hành vi này, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định Tội hành nghề mê tín, dị đoan tại Điều 320. Tội danh này thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước trong việc tôn trọng tín ngưỡng chính đáng nhưng kiên quyết đấu tranh với mê tín, dị đoan.
Có thể hiểu: “Tội hành nghề mê tín, dị đoan là hành vi thực hiện các hoạt động mê tín, dị đoan như bói toán, gọi hồn, yểm bùa, trừ tà, xem tướng, chữa bệnh bằng phương pháp phản khoa học… nhằm mục đích trục lợi hoặc gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, tính mạng, tài sản, danh dự của người khác, hoặc gây mất trật tự, an ninh xã hội.”
1.2. Ý nghĩa của chế định trong pháp luật hình sự:
Việc quy định Tội hành nghề mê tín, dị đoan có ý nghĩa pháp lý, xã hội và văn hóa sâu sắc, thể hiện chính sách hình sự tiến bộ và nhân văn của Nhà nước:
- Thứ nhất, quy định về Tội hành nghề mê tín, dị đoan nhằm bảo vệ trật tự công cộng và an toàn xã hội, ngăn chặn những hành vi tuyên truyền và thực hành mê tín gây hoang mang, ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, học tập của người dân.
- Thứ hai, tội danh này góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; đặc biệt là những người nhẹ dạ, cả tin, dễ bị lợi dụng trong các hoạt động bói toán, chữa bệnh hoặc cầu cúng phản khoa học.
- Thứ ba, khẳng định chủ trương của Nhà nước về tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhưng trong khuôn khổ pháp luật; phân biệt rõ giữa hoạt động tín ngưỡng chân chính và hành nghề mê tín, dị đoan mang tính lừa đảo.
- Thứ tư, Tội hành nghề mê tín, dị đoan có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm, hướng người dân đến lối sống văn minh, tin tưởng vào khoa học, pháp luật và các giá trị văn hóa lành mạnh.
1.3. Cơ sở pháp lý trong Bộ luật Hình sự 2015:
Tội hành nghề mê tín, dị đoan hiện nay đang được quy định tại Điều 320 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào dùng bói toán, đồng bóng hoặc các hình thức mê tín, dị đoan khác đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Làm chết người;
b) Thu lợi bất chính 200.000.000 đồng trở lên;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội hành nghề mê tín, dị đoan:
2.1. Khách thể:
Hành nghề mê tín, dị đoan được hiểu là hành vi sử dụng các hình thức mê tín như bói toán, lên đồng, gọi hồn, yểm bùa, trừ tà, xem tướng, chữa bệnh bằng phương pháp phản khoa học hoặc các hình thức tương tự khác… nhằm tác động đến nhận thức, hành vi của người khác; thường với mục đích vụ lợi hoặc gây ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội.
Tội hành nghề mê tín, dị đoan là hành vi xâm phạm đến trật tự công cộng, thuần phong mỹ tục và nếp sống văn minh của xã hội, làm suy giảm niềm tin của con người vào khoa học, pháp luật và các giá trị đạo đức truyền thống. Việc xử lý nghiêm tội danh này thể hiện chính sách của Nhà nước trong việc tôn trọng tín ngưỡng chính đáng nhưng kiên quyết bài trừ các hoạt động mê tín, dị đoan gây hậu quả xấu cho cộng đồng.
2.2. Mặt khách quan:
Mặt khách quan của tội hành nghề mê tín, dị đoan được thể hiện qua hành vi hành nghề mê tín, dị đoan. Tức là việc thực hiện thường xuyên, có tính nghề nghiệp các hoạt động mê tín như bói toán, lên đồng, gọi hồn, yểm bùa, trừ tà, xem tướng, cúng giải hạn, chữa bệnh bằng phương pháp phản khoa học… hoặc các hình thức tương tự khác nhằm thu lợi hoặc tác động tiêu cực đến xã hội. Cụ thể:
- “Mê tín, dị đoan” là sự tin tưởng mù quáng vào những điều không có căn cứ, không có cơ sở khoa học, cho rằng một số hiện tượng hoặc hành động nhất định có thể đem lại may mắn hay tai họa. Chẳng hạn như tin rằng nghe tiếng chim lợn kêu là điềm báo có người sắp chết, hay tin vào bói toán, xem tướng, cúng bái để đổi vận…
- “Hành nghề mê tín, dị đoan” là việc lấy các hoạt động mê tín làm phương tiện kiếm sống hoặc nguồn thu nhập chính. Nếu người thực hiện các hành vi như bói toán, đồng bóng, yểm bùa, cúng giải hạn… chỉ mang tính chất nhất thời, tự phát hoặc không nhằm mục đích sinh lợi, thì chưa được coi là “hành nghề”.
- “Bói toán” là hành vi dự đoán về quá khứ, hiện tại hoặc tương lai của con người thông qua các hình thức như bói dịch, bói quẻ, bói thẻ, bói Kiều, xem tướng, xem chỉ tay, xem ngày giờ tốt – xấu…
- “Đồng bóng” là hình thức cúng lễ, gọi hồn, hầu đồng, cho rằng thần thánh hoặc linh hồn nhập vào người hành lễ để “phán” về vận mệnh hoặc chỉ dẫn cho người khác.
Ngoài ra, những hành vi như cúng trừ tà, yểm bùa, giải hạn, chữa bệnh bằng cách gọi hồn hoặc dùng bùa chú mà không có cơ sở khoa học, gây hoang mang, thiệt hại cho người khác hoặc xã hội đều được coi là hành nghề mê tín, dị đoan.
Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của Tội hành nghề mê tín, dị đoan. Tuy nhiên, người thực hiện hành vi chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc đã bị kết án về tội này mà chưa được xóa án tích nay tiếp tục vi phạm, thể hiện sự coi thường pháp luật và tính nguy hiểm cao cho xã hội.
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của Tội hành nghề mê tín, dị đoan không phải chủ thể đặc biệt, bất kì ai cũng có thể là chủ thể của tội phạm này.
Chủ thể của tội phạm phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
2.4. Mặt chủ quan:
Tội hành nghề mê tín, dị đoan được thực hiện với lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp.
Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;
Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
3. Khung hình phạt của Tội hành nghề mê tín, dị đoan:
Tội hành nghề mê tín, dị đoan theo Điều 320 Bộ luật Hình sự 2015 gồm những khung hình phạt như sau;
- Khung 1: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội hành nghề mê tín, dị đoan:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội hành nghề mê tín, dị đoan được quy định tại khoản 2 Điều 320 Bộ luật Hình sự 2015 với khung hình phạt là phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
- Làm chết người:
Đây là tình tiết thể hiện mức độ nguy hiểm đặc biệt nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Trong thực tiễn, hậu quả chết người có thể xảy ra khi người phạm tội dùng các biện pháp mê tín phản khoa học để chữa bệnh khiến nạn nhân từ chối hoặc trì hoãn việc điều trị y tế chính thống, dẫn đến tử vong. Hậu quả cũng có thể xuất phát từ việc người hành nghề mê tín thực hiện các nghi lễ cực đoan, gây tổn hại thể chất hoặc tinh thần cho người bị hại. Khi hậu quả chết người xảy ra, hành vi của người phạm tội không chỉ xâm hại đến trật tự xã hội mà còn trực tiếp xâm phạm đến tính mạng con người, do đó cần áp dụng khung hình phạt nghiêm khắc để răn đe và phòng ngừa.
- Thu lợi bất chính 200.000.000 đồng trở lên:
Tình tiết này phản ánh mục đích trục lợi là động cơ chính của hành vi phạm tội. Người phạm tội thường lợi dụng lòng tin, nỗi lo sợ hoặc sự thiếu hiểu biết của người khác để dựng lên các nghi lễ, dịch vụ tâm linh giả dối và thu tiền với giá trị lớn. Số tiền thu lợi bất chính càng cao thì tính chất nguy hiểm cho xã hội càng lớn vì không chỉ gây thiệt hại kinh tế cho nhiều người mà còn làm lan rộng hiện tượng mê tín, lừa đảo, ảnh hưởng đến an ninh trật tự. Việc quy định ngưỡng định lượng 200 triệu đồng là rõ ràng, cụ thể; từ đó giúp cơ quan tiến hành tố tụng dễ dàng xác định tính chất nghiêm trọng của vụ án và áp dụng mức hình phạt tương xứng.
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội:
Đây là tình tiết phản ánh tính nguy hiểm gián tiếp nhưng có phạm vi tác động rộng. Hành vi mê tín, dị đoan có thể kích động tâm lý hoang mang, gây mất đoàn kết trong cộng đồng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào chính quyền và pháp luật, thậm chí gây rối trật tự công cộng hoặc làm phát sinh các hành vi phạm tội khác. Vì vậy, khi hành vi hành nghề mê tín, dị đoan gây hậu quả ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội, mức độ xử lý phải nghiêm khắc hơn không chỉ nhằm trừng phạt mà còn để ổn định xã hội và định hướng văn hóa lành mạnh trong cộng đồng.
5. Phân biệt tín ngưỡng và mê tín dị đoan:
Tiêu chí | Tín ngưỡng | Mê tín, dị đoan |
Khái niệm | Theo Điều 2 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016 thì tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua các lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống, nhằm mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng. | Là niềm tin mù quáng, phi lý vào những điều hư ảo, vô căn cứ, trái quy luật tự nhiên và khoa học, như tin vào bói toán, trừ tà, yểm bùa, chữa bệnh bằng phù phép… gây hậu quả tiêu cực cho cá nhân, gia đình và xã hội. |
Cơ sở hình thành | Xuất phát từ truyền thống văn hóa, đạo đức, phong tục lâu đời của dân tộc, mang giá trị tinh thần và nhân văn sâu sắc. | Xuất phát từ nhận thức sai lệch, sợ hãi, thiếu hiểu biết hoặc bị lợi dụng niềm tin, không dựa trên căn cứ khoa học hay giá trị văn hóa thực tiễn. |
Mục đích, ý nghĩa | Hướng con người đến “chân thiện mỹ”, tưởng nhớ tổ tiên, tôn vinh người có công, cầu mong bình an, thể hiện lòng biết ơn và đoàn kết cộng đồng… | Hướng con người đến ảo tưởng, sợ hãi, tin vào vận hạn, số mệnh, dẫn đến mất niềm tin vào bản thân, vào khoa học và pháp luật, gây rối loạn nhận thức xã hội. |
Hình thức thể hiện | Thông qua các hoạt động lễ nghi hợp pháp như: thờ cúng tổ tiên, tưởng niệm danh nhân, tổ chức lễ hội dân gian, thờ Thành hoàng, thờ Mẫu… | Thông qua các hoạt động phản khoa học như: bói toán, gọi hồn, lên đồng, yểm bùa, cúng giải hạn, chữa bệnh bằng “thần chú”… lợi dụng tâm linh để trục lợi. |
Giá trị xã hội | Có giá trị văn hóa, lịch sử, đạo đức; góp phần củng cố tinh thần dân tộc, duy trì bản sắc văn hóa và đoàn kết cộng đồng. | Gây ảnh hưởng tiêu cực đến trật tự an toàn xã hội, làm suy giảm niềm tin vào khoa học, gây thiệt hại về kinh tế, sức khỏe; thậm chí tính mạng con người. |
Quan điểm của Nhà nước | Được tôn trọng, bảo hộ theo quy định tại Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016. Nhà nước bảo vệ các giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và quyền tự do tín ngưỡng của mọi người. | Bị nghiêm cấm và xử lý nghiêm. Nhà nước có chế tài hành chính và hình sự đối với hành vi lợi dụng mê tín để trục lợi hoặc gây hậu quả nghiêm trọng (theo Điều 320 Bộ luật Hình sự 2015). |
Cơ sở thực hiện | Diễn ra tại các cơ sở tín ngưỡng hợp pháp như đình, đền, miếu, phủ, nhà thờ họ và được cộng đồng thừa nhận, quản lý. | Thường diễn ra tự phát, trá hình hoặc lén lút tại nhà riêng, nơi lập điện, am, miếu trái phép; không được pháp luật công nhận. |
Hệ quả pháp lý | Được pháp luật bảo vệ, Nhà nước khuyến khích các hoạt động tín ngưỡng đúng pháp luật, lành mạnh và góp phần bảo tồn văn hóa dân tộc. | Bị xử lý theo pháp luật tùy từng mức độ vi phạm. Người hành nghề mê tín, dị đoan có thể bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự (theo Điều 320 Bộ luật Hình sự 20152015). |
Tác động đối với con người | Giúp ổn định tinh thần, hướng thiện, gắn kết cộng đồng, củng cố niềm tin vào các giá trị nhân văn và đạo lý truyền thống. | Làm mất phương hướng, gây hoang mang, mê muội, khiến con người dễ bị lợi dụng, gây ra thiệt hại vật chất và tinh thần nghiêm trọng. |
6. Tổ chức hoạt động mê tín, dị đoan bị xử phạt như thế nào?
Khoản 7 Điều 14 Nghị định 38/2021/NĐ-CP có quy định xử phạt đối với hành vi hoạt động mê tín dị đoan. Theo đó, phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
- Tổ chức lễ hội theo quy định phải đăng ký mà không có văn bản chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
- Tổ chức lễ hội truyền thống không đúng với bản chất, ý nghĩa lịch sử, văn hóa;
- Thực hiện nghi lễ có tính bạo lực, phản cảm, trái với truyền thống yêu hòa bình, nhân đạo của dân tộc Việt Nam;
- Không tạm dừng tổ chức lễ hội theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
- Tổ chức hoạt động mê tín dị đoan.
Đồng thời, khoản 2 và khoản 3 Điều 5 Nghị định 38/2021/NĐ-CP quy định về mức phạt tiền và thẩm quyền phạt tiền đối với cá nhân, tổ chức như sau:
- Mức phạt tiền quy định tại Chương II và Chương III Nghị định 38/2021/NĐ-CP là mức phạt tiền áp dụng đối với cá nhân, trừ trường hợp quy định tại khoản 1, điểm c khoản 4, điểm a khoản 5 và khoản 6 Điều 6; các điểm c, đ, e và g khoản 4 Điều 8; các khoản 1, 2 và 3 Điều 9; Điều 10; điểm a khoản 2, các khoản 3, 5 và 6, các điểm a, b, c và d khoản 7 Điều 14; các khoản 1, 2, 3, 4 và điểm b khoản 5 Điều 21; các khoản 1, 2, 3, 4 và điểm b khoản 5 Điều 23; khoản 1 Điều 24; các Điều 30, 38, 39 và 40 Nghị định 38/2021/NĐ-CP là mức phạt tiền áp dụng đối với tổ chức;
- Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính mức phạt tiền đối với tổ chức gấp 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
Theo đó, hành vi tổ chức hoạt động mê tín dị đoan có thể bị phạt tiền từ 15 triệu đồng đến 20 triệu đồng theo khoản 7 Điều 14 Nghị định 38/2021/NĐ-CP. Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính mức phạt tiền đối với tổ chức gấp 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
Ngoài ra, người tham gia hoạt động mê tín dị đoan trong lễ hội cũng có thể chịu phạt từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng theo quy định nêu trên.
THAM KHẢO THÊM:

Tư vấn pháp luật qua Zalo


