Tội dùng nhục hình được quy định tại Điều 373 Bộ luật Hình sự năm 2015. Đây là hành vi của người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hoặc thi hành án đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tra tấn, hành hạ, đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm hoặc gây đau đớn thể xác, tổn thương tinh thần cho người khác; qua đó xâm phạm nghiêm trọng quyền con người, quyền được bảo vệ về thân thể, danh dự và nhân phẩm.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát chung về Tội dùng nhục hình:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội dùng nhục hình:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội dùng nhục hình:
- 4 4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội dùng nhục hình:
- 5 5. Phân biệt Tội dùng nhục hình với Tội bức cung:
- 6 6. Ví dụ một bản án điển hình của Tội dùng nhục hình:
- 7 7. Nguyên nhân dẫn đến tình hình tội phạm dùng nhục hình:
1. Khái quát chung về Tội dùng nhục hình:
1.1. Dùng nhục hình là gì?
Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người năm 1948 khẳng định: “Không ai bị tra tấn hay bị đối xử, xử phạt một cách tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ thấp nhân phẩm” và “Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ như nhau, không có bất cứ sự phân biệt nào”.
Công ước quốc tế về Các quyền dân sự và chính trị năm 1966 tiếp tục khẳng định những quyền cơ bản của người như: “Không ai có thể bị tra tấn hoặc phải chịu những hình phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo, làm hạ thấp phẩm giá con người…” và “Những người bị tước tự do vẫn phải được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm” (theo khoản 1 Điều 10).
Điều 20 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân; trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định.
“Dùng nhục hình” là hành vi của người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án hoặc thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tác động lên thể xác của người bị buộc tội, khiến họ bị đau đớn, tổn hại về sức khỏe, tinh thần và nhân phẩm.
Có thể đưa ra khái niệm về Tội dùng nhục hình như sau:
“Tội dùng nhục hình là hành vi của người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hoặc trong thi hành án hình sự, thi hành các biện pháp tư pháp đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tra tấn, hành hạ, đối xử tàn bạo, làm nhục hoặc gây đau đớn thể xác, tổn thương tinh thần đối với người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo, người chấp hành án hoặc người tham gia tố tụng khác.”
1.2. Ý nghĩa:
Việc quy định Tội dùng nhục hình tại Điều 373 Bộ luật Hình sự năm 2015 có ý nghĩa như sau:
- Thứ nhất, quy định này nhằm bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người. Trong mọi giai đoạn tố tụng thì người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo hay người chấp hành án đều có quyền được đối xử nhân đạo, không bị tra tấn, ép cung hay hành hạ. Tội dùng nhục hình được quy định để ngăn chặn việc lạm quyền, bảo đảm sự công bằng, nhân đạo và đúng pháp luật trong hoạt động tư pháp.
- Thứ hai, quy định này thể hiện nguyên tắc nhân đạo và tính thượng tôn pháp luật trong tố tụng hình sự. Mọi hành vi dùng bạo lực, cưỡng bức, tra tấn nhằm buộc người khác khai nhận đều vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc chứng cứ hợp pháp. Việc xử lý nghiêm hành vi dùng nhục hình giúp nâng cao tính minh bạch và khách quan của quá trình tố tụng; đồng thời góp phần xây dựng hình ảnh người cán bộ tư pháp.
- Thứ ba, tội danh này có ý nghĩa răn đe, phòng ngừa và giáo dục cán bộ trong các cơ quan bảo vệ pháp luật. Hoạt động điều tra, truy tố, xét xử là những lĩnh vực nhạy cảm và dễ phát sinh lạm quyền. Do đó việc quy định tội danh cụ thể và chế tài nghiêm khắc giúp tăng cường trách nhiệm của người tiến hành tố tụng; buộc họ phải hành động đúng quy trình, đúng quyền hạn, tôn trọng pháp luật và quyền con người.
- Thứ tư, việc xử lý hành vi dùng nhục hình góp phần giữ vững kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan tiến hành tố tụng, củng cố niềm tin của nhân dân vào công lý và pháp luật. Khi người dân tin tưởng rằng mọi hành vi lạm quyền, bức cung hoặc tra tấn đều bị xử lý nghiêm minh thì niềm tin vào hệ thống tư pháp sẽ được củng cố; qua đó bảo đảm tính chính danh, công bằng và uy tín của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội dùng nhục hình:
Tội dùng nhục hình hiện nay đang được quy định tại Điều 373 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào trong hoạt động tố tụng, thi hành án hoặc thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mà dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm của người khác dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với 02 người trở lên;
c) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
d) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại về sức khỏe cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 60%.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại về sức khỏe cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Làm người bị nhục hình tự sát.
4. Phạm tội làm người bị nhục hình chết, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội dùng nhục hình:
2.1. Khách thể:
Tội dùng nhục hình xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người tham gia tố tụng, làm giảm uy tín của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát Toà án và Cơ quan thi hành án.
2.2. Mặt khách quan:
Người có thẩm quyền trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự hoặc thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có thể thực hiện một trong các hành vi sau:
- Tra tấn, đánh đập;
- Bắt nhịn ăn, nhịn uống, cho ăn cơm thừa, cảnh cặn;
- Không cho ngủ, cùm kẹp;
- Hỏi cung suốt ngày đêm;
- Bắt phơi nắng, bắt tắm nước lạnh vào mùa đông;
- Hoặc có hành vi khác gây đau đớn về thể xác và tinh thần đối với người bị tạm giữ, tạm giam, bị cần, bị cáo, người bị kết án đang chấp hành hình phạt tù trong các trại giam hoặc những người tham gia tố tụng khác.
Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của Tội dùng nhục hình. Chỉ cần người phạm tội thực hiện hành vi dùng nhục hình là tội phạm đã hoàn thành. Tội dùng nhục hình có cấu thành hình thức.
Lưu ý: Để hạn chế tối đa các vụ việc bức cung, dùng nhục hình trong hoạt động tố tụng hình sự, ngoài việc tăng cường cơ chế giám sát và thực hiện nghiêm các quy định trong Thông tư số 126/TT-BCA của Bộ Công an về việc ghi âm, ghi hình khi hỏi cung bị can, cần đặc biệt chú trọng nâng cao phẩm chất đạo đức, tác phong và ý thức kỷ luật của cán bộ tiến hành tố tụng, đồng thời xử lý nghiêm minh mọi trường hợp vi phạm.
Bên cạnh đó, việc quản lý dữ liệu ghi âm, ghi hình cần được giao cho Viện kiểm sát hoặc một cơ quan giám sát độc lập thứ ba để đảm bảo tính minh bạch, khách quan. Nếu để cơ quan điều tra vừa thực hiện việc ghi hình, vừa nắm quyền quản lý dữ liệu, sẽ khó tránh khỏi nguy cơ thiếu khách quan và tiềm ẩn nguy cơ lạm dụng trong quá trình tố tụng.
Điều 6 Thông tư số 126/TT-BCA quy định “Những việc Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên và Cán bộ điều tra không được làm”. Bao gồm:
- Tự ý tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm và đơn thư khiếu nại, tố cáo trái quy định hoặc không được Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra phân công; tự ý tiến hành các hoạt động điều tra không theo kế hoạch điều tra đã được Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra phê duyệt;
- Thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, hủy hoặc làm hư hỏng tài liệu, đồ vật, vật chứng của vụ việc, vụ án hoặc bằng các phương thức khác làm sai lệch nội dung vụ việc vụ án;
- Tiếp người bị buộc tội, người thân thích của người bị buộc tội, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác ngoài trụ sở cơ quan Công an, trừ trường hợp do yêu cầu nghiệp vụ phải được sự đồng ý của Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra;
- Ăn uống, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích khác của người bị buộc tội, người thân thích của người bị buộc tội, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác.
- Lợi dụng danh nghĩa công tác để gặp gỡ, nhờ, sách nhiễu hoặc cầu lợi dưới bất kỳ hình thức nào đối với người bị buộc tội, người thân thích của người bị buộc tội, đương sự, người tham gia tố tụng khác và các cơ quan, tổ chức có liên quan;
- Bức cung, mớm cung hoặc dùng nhục hình dưới bất kỳ hình thức nào;
- Tiết lộ bí mật, thông tin, tài liệu vụ án, vụ việc đang được điều tra, xác minh khi chưa được phép công khai với người không có trách nhiệm dưới bất kỳ hình thức nào. Trường hợp cần cung cấp thông tin phải báo cáo và được sự đồng ý bằng văn bản của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra.
Trong thời gian qua, không ít cán bộ điều tra đã bị xử lý hình sự do thực hiện các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp, trong đó nổi bật là các hành vi như: bức cung, dùng nhục hình, làm sai lệch hồ sơ vụ án, ra quyết định trái pháp luật, nhận hối lộ… Mặc dù các hành vi này đã được phát hiện, khởi tố và xử lý bằng chế tài nghiêm khắc của pháp luật hình sự, song tình trạng vi phạm vẫn còn diễn biến phức tạp và tiềm ẩn nhiều hệ lụy nghiêm trọng.
Chính vì vậy, việc Bộ Công an ban hành Thông tư nhằm siết chặt kỷ luật và kỷ cương trong hoạt động điều tra là một bước đi cần thiết và kịp thời, góp phần bảo đảm hoạt động tố tụng được thực hiện khách quan minh bạch, đúng pháp luật; đồng thời ngăn chặn tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực và vi phạm quyền con người trong quá trình điều tra.
Tuy nhiên, để Thông tư số 126/TT-BCA thực sự đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả, các cơ quan điều tra phải tổ chức triển khai, quán triệt và thực hiện nghiêm túc ở mọi cấp, mọi khâu. Khi các quy định pháp luật được áp dụng đầy đủ, công bằng và chuẩn mực, sẽ góp phần đảm bảo quyền con người, quyền của bị can, bị cáo; nâng cao tính khách quan và công tâm trong giải quyết vụ án hình sự.
Hơn thế nữa, siết chặt kỷ luật và kỷ cương trong lực lượng Công an nhân dân cần phải đi đôi với nâng cao trình độ chuyên môn, bản lĩnh chính trị và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ điều tra; đặc biệt là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra và những người trực tiếp tham gia hoạt động tố tụng. Chỉ khi mỗi cán bộ điều tra thật sự thượng tôn pháp luật và hành động vì công lý thì mới có thể giữ vững uy tín của ngành và củng cố niềm tin của nhân dân.
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của Tội dùng nhục hình là người đủ tuổi và có đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
Đồng thời, chủ thể của tội này là chủ thể đặc biệt. Chỉ những người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng (Điều tra, truy tố, xét xử), thi hành án hoặc thi hành các biện pháp khác như Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan Điều tra; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án; Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, các cán bộ trong các Nhà tạm giữ, Trại tạm giam, Trại giam (Ban giám thị, Quản giáo). Trong đó thủ trưởng cơ quan Điều tra, phó thủ trưởng cơ quan Điều tra, Điều tra viên là những người thực hiện tội phạm này chiếm đa số.
2.4. Mặt chủ quan:
Tội dùng nhục hình được thực hiện với lỗi cố ý (trực tiếp hoặc gián tiếp).
Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc tuy chỉ thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra
3. Khung hình phạt của Tội dùng nhục hình:
Tội dùng nhục hình theo Điều 373 quy định 03 khung hình phạt chính và 01 khung hình phạt bổ sung:
- Khung hình phạt cơ bản: Bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Khung hình phạt tặng nặng thứ nhất: Bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
- Khung hình phạt tăng nặng thứ hai: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
- Khung hình phạt bổ sung: Bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội dùng nhục hình:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội dùng nhục hình được quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 373 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
4.1. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 373:
- Phạm tội 02 lần trở lên: Tình tiết này thể hiện tính chất tái phạm nhiều lần, cố ý và có hệ thống trong hành vi phạm tội. Người phạm tội không chỉ thực hiện hành vi dùng nhục hình một cách đơn lẻ mà đã thực hiện hành vi đó từ hai lần trở lên với cùng một mục đích và tính chất nguy hiểm cho xã hội. Việc lặp lại hành vi chứng tỏ người phạm tội không hối cải, coi thường pháp luật và xâm phạm nghiêm trọng quyền con người của nhiều người. Đây là tình tiết phản ánh mức độ lỗi cố ý trực tiếp và động cơ cứng rắn, do đó khung hình phạt tăng lên từ 02 năm đến 07 năm tù.
- Đối với 02 người trở lên: Trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo đối với từ hai người trở lên, thể hiện mức độ xâm phạm rộng hơn đến quyền con người, danh dự và nhân phẩm của nhiều cá nhân. Điều này không chỉ gây tổn thương nghiêm trọng về thể chất và tinh thần cho các nạn nhân mà còn làm mất niềm tin của xã hội vào tính công minh và nhân đạo của cơ quan bảo vệ pháp luật.
- Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt: Người phạm tội sử dụng các phương pháp, công cụ, biện pháp hoặc cách thức tinh vi, khó phát hiện nhằm che giấu hành vi phạm tội hoặc gây khó khăn cho việc chứng minh, truy cứu trách nhiệm hình sự. Thủ đoạn có thể là dàn dựng hiện trường, lợi dụng chức vụ quyền hạn để ngụy tạo tài liệu, ép buộc người bị hại im lặng hoặc dùng các hình thức tra tấn không để lại dấu vết rõ ràng.
- Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng: Đây là tình tiết tăng nặng thể hiện sự tàn nhẫn và vô nhân đạo của người phạm tội, khi xâm hại thân thể và nhân phẩm của những người yếu thế cần được pháp luật bảo vệ đặc biệt. Những đối tượng này có thể chất yếu, tâm lý nhạy cảm, dễ bị tổn thương, do đó hành vi dùng nhục hình đối với họ không chỉ gây đau đớn về thể xác mà còn để lại di chứng nặng nề về tinh thần, thậm chí dẫn đến tự sát.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại về sức khỏe cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 60%: Trường hợp người phạm tội dùng nhục hình gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho nạn nhân với tỷ lệ từ 11% đến 60%, thể hiện mức độ hậu quả thực tế đáng kể của hành vi phạm tội. Đây là tình tiết tăng nặng vì hành vi không chỉ dừng ở mức xâm phạm danh dự, nhân phẩm mà còn gây ra thiệt hại về thể chất và sức khỏe cho người bị hại.
4.2. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 3 Điều 373:
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại về sức khỏe cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên: Khi tỷ lệ thương tật của nạn nhân từ 61% trở lên thì hậu quả đã ở mức rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thể hiện mức độ tàn bạo cao và sử dụng bạo lực cực đoan trong quá trình dùng nhục hình. Đây là tình tiết định khung tăng nặng ở Khoản 3 Điều 373 với mức phạt tù từ 07 năm đến 12 năm nhằm trừng trị thích đáng hành vi xâm phạm nghiêm trọng quyền bất khả xâm phạm về thân thể được ghi nhận tại Hiến pháp và các điều ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam là thành viên.
- Làm người bị nhục hình tự sát: Trường hợp hành vi dùng nhục hình gây áp lực tinh thần cực độ khiến người bị hại tuyệt vọng và dẫn đến tự sát, được coi là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Hành vi này không chỉ xâm phạm đến thân thể, nhân phẩm, danh dự của người bị hại mà còn tước đoạt gián tiếp quyền sống của họ, gây hậu quả không thể khắc phục.
4.3. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 4 Điều 373:
Khoản 4 quy định: “Phạm tội làm người bị nhục hình chết” thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
Đây là tình tiết đặc biệt nghiêm trọng, thể hiện hậu quả cao nhất và không thể khắc phục. Người phạm tội bằng hành vi bạo lực, tra tấn, đánh đập, hành hạ đã trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra cái chết cho người bị hại.
Hành vi này thể hiện sự tàn ác và coi thường tính mạng con người, xâm phạm nghiêm trọng quyền được sống – quyền cơ bản nhất của con người. Do đó, Bộ luật Hình sự 2015 quy định hình phạt đặc biệt nghiêm khắc (từ 12 năm đến 20 năm tù hoặc tù chung thân) nhằm răn đe tuyệt đối và bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật, nhân phẩm con người trong hoạt động tư pháp.
5. Phân biệt Tội dùng nhục hình với Tội bức cung:
Tiêu chí | Tội dùng nhục hình (Điều 373 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội bức cung (Điều 374 Bộ luật Hình sự 2015) |
Khái niệm | Nhục hình là một hình phạt thể xác trong đó một người bị gây đau đớn, thường là để trừng phạt cho một tội ác hoặc để buộc cung cấp thông tin. | Bức cung là hành vi sử dụng các thủ đoạn trái pháp luật để buộc người bị hỏi cung (bị can) phải khai ra thông tin liên quan đến vụ án, vụ việc. |
Mục đích | Mục đích của việc sử dụng nhục hình là để gây đau đớn và khổ sở cho người khác. Nhục hình có thể được sử dụng để buộc một người thú tội, thừa nhận hoặc làm điều gì đó chống lại ý muốn của họ. | Nhằm ép buộc người bị lấy lời khai, hỏi cung phải khai ra thông tin liên quan đến vụ án, vụ việc |
Hậu quả | Có thể gây tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe, tinh thần của người bị hại, thậm chí dẫn đến tử vong. | Có thể dẫn đến việc người bị hỏi cung khai báo sai sự thật, gây oan sai cho họ. |
Hình phạt | Khung 1: Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 12 năm. Khung 4: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Khung 1: Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 12 năm. Khung 4: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề từ 01 năm đến 05 năm. |
6. Ví dụ một bản án điển hình của Tội dùng nhục hình:
- Tên bản án:
Bản án về tội dùng nhục hình (cán bộ dùng nhục hình dẫn đến chết người) số 44/2023/HS-ST ngày 25/07/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.
- Nội dung vụ án:
Ngày 23/3/2022, Nguyễn Khánh H2, trú tại ấp A, xã A, huyện Đ, tỉnh Long An, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ khởi tố và tạm giam về tội “Trộm cắp tài sản”. Trong thời gian chờ xét xử, H2 bị giam giữ tại buồng giam số 04 khu D (4D), Nhà tạm giữ Công an huyện Đ. Vào khoảng 19 giờ và 23 giờ ngày 10/6/2022, trong ca trực của Ngô Trường Đ – cán bộ Quản giáo Đội Cảnh sát Thi hành án hình sự và Hỗ trợ tư pháp, H2 nhiều lần la hét, chửi bới, gây mất trật tự và không giữ vệ sinh, dù đã được nhắc nhở nhưng vẫn tái phạm.
Đến 4 giờ 30 phút sáng ngày 11/6/2022, H2 tiếp tục la hét, chửi tục, bị Nguyễn Tiến P và Nguyễn Quốc T2 (chiến sĩ trực gác) nhắc nhở nhưng không chấp hành. Sau khi được báo cáo, Ngô Trường Đ đến hiện trường, thấy H2 không mặc quần áo, tiếp tục la hét, chửi bới và phun nước bọt vào người cán bộ quản giáo.
Ngô Trường Đ sau đó lấy dùi cui tự chế bằng ống nhựa cứng dài khoảng 60cm, cùng ông P mở cửa buồng giam, yêu cầu H2 nằm sấp để giữ trật tự. Khi H2 không chấp hành, Đ đã dùng dùi cui đánh liên tiếp khoảng 7 đến 8 cái vào vùng mông, lưng và tay chân của H2. Sau khi H2 kêu đau và xin lỗi, Đ rời buồng giam, yêu cầu khóa cửa. Tuy nhiên, chỉ vài phút sau, H2 tiếp tục la hét, chửi bới, nên Đ quay lại và đánh thêm khoảng 5 đến 6 cái vào tay, chân H2 trước khi rời đi.
Khoảng 6 giờ 50 phút sáng cùng ngày, H2 vẫn la hét trong buồng giam, được chiến sĩ trực gác Hồ Ngọc T3 và quản giáo Phan Văn V nhắc nhở, sau đó im lặng. Đến 9 giờ 50 phút, hai phạm nhân cùng buồng là Phạm Minh Đi và Phạm Anh T4 phát hiện H2 nằm bất động, không còn phản ứng. Cán bộ trực lập tức báo cho Ngô Trường Đ và cán bộ y tế đến kiểm tra, sau đó đưa H2 đi cấp cứu tại Bệnh viện Đ4 (huyện Đ, tỉnh Long An). Tuy nhiên, bác sĩ xác định Nguyễn Khánh H2 đã tử vong trước khi nhập viện.
Ngay trong ngày 11/6/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Long An đã khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và ra quyết định trưng cầu giám định nguyên nhân tử vong của Nguyễn Khánh H2.
- Quyết định của Tòa án:
+ Bị cáo Ngô Trường Đ phạm tội dùng nhục hình.
+ Xử phạt bị cáo Ngô Trường Đ 07 (B) năm tù. Thời gian tù được tính từ ngày bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt để tạm giam từ ngày 26/4/2023.
7. Nguyên nhân dẫn đến tình hình tội phạm dùng nhục hình:
Thứ nhất, do ý thức pháp luật và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận cán bộ điều tra còn yếu kém. Một số cán bộ chưa tuân thủ nghiêm túc các quy định pháp luật, nguyên tắc tố tụng và quy trình điều tra, đặc biệt trong hoạt động lấy lời khai và hỏi cung bị can. Dù nhận thức rõ hành vi dùng nhục hình là vi phạm pháp luật, thậm chí có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự và gây tổn hại nghiêm trọng về thể chất, tinh thần cho người bị hại nhưng họ vẫn cố tình thực hiện. Điều này phản ánh thái độ coi thường pháp luật, sự xuống cấp về đạo đức nghề nghiệp và ý thức tôn trọng quyền con người – quyền công dân còn hạn chế.
Thứ hai, do trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng điều tra của một số cán bộ còn yếu. Một số điều tra viên thiếu kinh nghiệm, không nắm vững các phương pháp nghiệp vụ, chiến thuật lấy lời khai, hỏi cung bị can; nhất là biện pháp tác động tâm lý, nghệ thuật khai thác thông tin hợp pháp nên khi người bị tình nghi không khai nhận, họ bị kích động, mất bình tĩnh dẫn đến hành vi dùng nhục hình. Ngoài ra tư tưởng thành tích, tâm lý nóng vội, khí chất nóng nảy, thiếu kiềm chế và không kiên nhẫn trong quá trình điều tra cũng là nguyên nhân phổ biến. Do thường xuyên tiếp xúc với người phạm tội, người có tiền án/tiền sự, có thái độ chống đối, quanh co hoặc khiêu khích… một số cán bộ không giữ được bình tĩnh và đã lựa chọn bạo lực thay vì nghiệp vụ; từ đó xâm phạm nghiêm trọng quyền và nhân phẩm con người.
Thứ ba, tội phạm dùng nhục hình còn bắt nguồn từ việc xem nhẹ nguyên tắc suy đoán vô tội – một nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Nhiều điều tra viên và cán bộ tiến hành tố tụng vẫn mang định kiến chủ quan, mặc nhiên coi người bị bắt/bị can là có tội dựa trên các nguồn tin ban đầu, từ đó tìm mọi cách buộc họ phải nhận tội. Cách tiếp cận sai lầm này không chỉ làm sai lệch bản chất vụ án mà còn vi phạm nghiêm trọng quyền con người, làm mất tính khách quan và công bằng của hoạt động tố tụng hình sự.
Thứ tư, việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị bắt, bị can, bị cáo trong giai đoạn điều tra còn hạn chế. Trên thực tế, nhiều vụ án hình sự không có Luật sư tham gia ngay từ giai đoạn đầu, do vướng mắc về thủ tục, tâm lý e ngại hoặc cơ chế thực thi chưa đầy đủ khiến người bị tạm giữ/tạm giam thiếu người giám sát, bảo vệ quyền lợi hợp pháp. Tình trạng hỏi cung vắng mặt người bào chữa dẫn đến nguy cơ lạm quyền, vi phạm tố tụng và phát sinh hành vi dùng nhục hình. Việc tăng cường sự tham gia thực chất của Luật sư trong suốt quá trình tố tụng là biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa tội dùng nhục hình, bảo đảm quyền con người và tính minh bạch trong điều tra hình sự.
THAM KHẢO THÊM: