Trong lĩnh vực hàng không, an toàn bay luôn được đặt lên hàng đầu bởi chỉ một sai sót nhỏ cũng có thể dẫn đến thảm họa nghiêm trọng. Tuy nhiên hiện nay vẫn tồn tại tình trạng đưa tàu bay hoặc thiết bị bảo đảm hoạt động bay vào sử dụng khi chưa đạt tiêu chuẩn kỹ thuật, gây nguy cơ lớn cho tính mạng con người và tài sản. Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định cụ thể tội danh này Điều 279 để xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát về Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn:
- 1.1 1.1. Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn là gì?
- 1.2 1.2. Ý nghĩa của Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn trong pháp luật hình sự:
- 1.3 1.3. Cơ sở pháp lý của Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn:
- 2 2. Cấu thành Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn:
- 4 4. Các tình tiết định khung tăng nặng theo Điều 279 Bộ luật Hình sự 2015:
- 5 5. Phân biệt với Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển tàu bay:
1. Khái quát về Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn:
1.1. Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn là gì?
Trong bối cảnh ngành hàng không Việt Nam phát triển nhanh như hiện nay thì số lượng tàu bay, sân bay và các trang thiết bị bảo đảm hoạt động bay ngày càng nhiều, khiến nguy cơ vi phạm quy định an toàn hàng không cũng gia tăng. Thực tế đã ghi nhận những vụ việc liên quan đến bảo dưỡng, kiểm tra kỹ thuật không đúng quy chuẩn, việc vận hành hệ thống thiết bị giám sát bay và điều hành bay còn tồn tại nhiều thiếu sót.
Dù các sự cố nghiêm trọng gây hậu quả lớn chưa xảy ra nhiều trên thực tế nhưng nguy cơ tiềm ẩn vẫn rất cao, đặc biệt là khi áp lực khai thác tăng nhanh trong khi hệ thống kỹ thuật và nguồn nhân lực đôi khi chưa đáp ứng kịp. Chính vì vậy, việc đặt ra tội danh này có ý nghĩa răn đe và phòng ngừa hết sức cần thiết.
Có thể đưa ra khái niệm về Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn như sau:
“Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn là hành vi của người có trách nhiệm trực tiếp trong việc điều động hoặc đảm bảo tình trạng kỹ thuật nhưng vẫn cho phép đưa tàu bay hoặc các thiết bị phục vụ hoạt động bay vào sử dụng khi biết rõ chúng không đạt tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật. Hành vi này xâm hại nghiêm trọng đến chế độ quản lý nhà nước về an toàn hàng không, tiềm ẩn nguy cơ gây tai nạn cho con người, tài sản và an ninh quốc gia.”
1.2. Ý nghĩa của Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn trong pháp luật hình sự:
- Thứ nhất, bảo đảm an toàn hàng không: Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn góp phần bảo vệ tính mạng, sức khỏe của hành khách, phi hành đoàn và người dân; đồng thời bảo đảm an toàn cho phương tiện và tài sản trong ngành hàng không.
- Thứ hai, giữ vững trật tự quản lý nhà nước: Việc xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm khẳng định vai trò kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước đối với lĩnh vực có yêu cầu an toàn đặc biệt cao.
- Thứ ba, phòng ngừa rủi ro và tai nạn thảm khốc: Ngăn chặn từ sớm hành vi thiếu trách nhiệm và tránh nguy cơ dẫn tới thảm họa hàng không với những hậu quả khôn lường về người và tài sản.
- Thứ tư, tạo dựng niềm tin xã hội: Bảo đảm an toàn trong ngành hàng không là yếu tố then chốt giúp củng cố niềm tin của người dân và Nhà đầu tư, góp phần phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn:
Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn hiện nay đang được quy định tại Điều 279 Bộ luật hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào có trách nhiệm trực tiếp về việc điều động hoặc về tình trạng kỹ thuật của các phương tiện giao thông đường không mà cho đưa vào sử dụng các phương tiện rõ ràng không bảo đảm an toàn kỹ thuật, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm:
a) Làm chết 02 người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Làm chết 03 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 1.500.000.000 đồng trở lên.
5. Người có trách nhiệm trực tiếp về việc điều động hoặc về tình trạng kỹ thuật của các phương tiện giao thông đường không mà cho đưa vào sử dụng các phương tiện rõ ràng không bảo đảm an toàn kỹ thuật, gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
6. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn:
2.1. Khách thể:
Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn xâm phạm trực tiếp đến: Các quy định của Nhà nước về an toàn giao thông đường không. Ngoài ra, hành vi phạm tội còn xâm phạm đến:
- Đe dọa tính mạng, sức khỏe của hành khách, phi hành đoàn và người dưới mặt đất;
- Gây thiệt hại về tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân;
- Làm mất uy tín, an toàn hàng không quốc gia, ảnh hưởng đến an ninh và trật tự công cộng.
Đối tượng tác động của Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn là: Tàu bay và các thiết bị bảo đảm hoạt động bay.
Trong đó:
- Tàu bay: Là thiết bị được nâng giữ trong khí quyển nhờ tác động tương hỗ với không khí, bao gồm máy bay, trực thăng, trừ thiết bị được nâng giữ trong khí quyển nhờ tác động tương hỗ với không khí phản lại từ bề mặt trái đất. Theo đó thì tàu bay bao gồm nhiều thiết bị bay khác nhau, trong đó có máy bay. Máy bay được xem là một trong những loại tàu bay thông dụng nhất hiện nay (khoản 1 Điều 13 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam 2006, sửa đổi 2024).
- Dịch vụ bảo đảm hoạt động bay: Là dịch vụ cần thiết để bảo đảm an toàn, điều hoà, liên tục và hiệu quả cho hoạt động bay, bao gồm dịch vụ không lưu, dịch vụ thông tin, dẫn đường, giám sát, dịch vụ khí tượng; dịch vụ thông báo tin tức hàng không và dịch vụ tìm kiếm, cứu nạn (khoản 1 Điều 95 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam 2006, sửa đổi năm 2024).
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn là: Hành vi cố ý hoặc vô ý đưa tàu bay hoặc thiết bị bay không đáp ứng đầy đủ các điều kiện kỹ thuật, điều kiện vận hành theo quy định của pháp luật vào khai thác, bay thử hoặc vận hành thực tế; gây uy hiếp nghiêm trọng đến an toàn bay và có thể để lại hậu quả nguy hiểm cho con người và tài sản.
Hành vi khách quan của tội phạm này có thể bao gồm các hành vi sau:
- Đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bay không đạt tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật;
- Vận hành, điều khiển, khai thác phương tiện bay không qua kiểm định, kiểm tra, không đủ điều kiện vận hành;
- Không sửa chữa, bảo dưỡng đúng quy trình, dẫn đến việc phương tiện không bảo đảm an toàn;
- Tiếp tục sử dụng phương tiện đã bị cảnh báo không đủ điều kiện khai thác;
- Vi phạm quy định chuyên ngành hàng không về kỹ thuật, bảo trì, vận hành phương tiện bay.
Đồng thời, tội phạm được xác lập khi thực hiện một trong những hành vi nêu trên và gây ra những hậu quả như sau:
- Làm chết người;
- Gây thương tích cho nhiều người với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể nhất định;
- Gây thiệt hại lớn về tài sản;
- Làm gián đoạn và uy hiếp nghiêm trọng an toàn hoạt động hàng không.
Theo đó, hậu quả của hành vi này là bắt buộc trong cấu thành tội phạm của Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn. Hành vi đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn phải gây thiệt hại về tính mạng hoặc thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội danh này.
Một trong những yếu tố cần xem xét trong Mặt khách quan của tội danh này là phương tiện giao thông đường hàng không. Cụ thể là các phương tiện này không đảm bảo và đáp ứng đầy đủ điều kiện về tiêu chuẩn kĩ thuật. Việc không đảm bảo an toàn kỹ thuật có thể dễ dàng nhận biết ngay hoặc nhìn thấy ngay mà không cần phải qua kiểm tra kỹ thuật. Đây là dấu hiệu khách quan buộc và cũng là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội danh này.
2.3. Mặt chủ quan:
Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn được thực hiện với lỗi do vô ý. Người thực hiện hành vi vi phạm nhận thức được hành vi của mình sẽ gây nguy hiểm nhưng vẫn thực hiện do nghĩ rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra.
2.4. Chủ thể:
Chủ thể của Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật (từ đủ 16 tuổi trở lên theo Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015) và đảm nhiệm chức trách chuyên môn trong lĩnh vực hàng không, cụ thể như:
- Người có thẩm quyền điều động tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay (như nhân viên điều phối, chỉ huy bay…);
- Hoặc người chịu trách nhiệm về tình trạng kỹ thuật của tàu bay hoặc thiết bị liên quan (kỹ sư bảo trì, nhân viên kỹ thuật, thợ bảo dưỡng…).
Yếu tố chức vụ và trách nhiệm là điều kiện bắt buộc trong chủ thể của Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn. Vì chỉ những người có quyền quyết định vận hành hoặc xác nhận tình trạng kỹ thuật mới có thể cấu thành tội phạm này.
Như vậy: Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn là tội danh có tính chất đặc thù. Chỉ cấu thành tội danh này khi người phạm tội có chức trách cụ thể và hành vi gây nguy hiểm cho an toàn bay, dù chưa gây hậu quả thực tế (cấu thành hình thức).
3. Khung hình phạt của Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn:
Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn theo Điều 279 của Bộ luật Hình sự 2015 quy định khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 08 năm đến 15 năm.
- Khung 4: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Các tình tiết định khung tăng nặng theo Điều 279 Bộ luật Hình sự 2015:
Các tình tiết định khung tăng nặng hình phạt của Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn được quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 279 Bộ luật Hình sự 2015:
4.1. Các tình tiết định khung tăng nặng hình phạt theo khoản 2 Điều 279 Bộ luật Hình sự 2015:
- Làm chết người theo điểm a khoản 2 Điều 279 Bộ luật Hình sự 2015:
Khi hành vi đưa vào sử dụng tàu bay hoặc thiết bị bảo đảm hoạt động bay không an toàn gây ra cái chết cho một người thì hậu quả đã ở mức đặc biệt nghiêm trọng. Tai nạn hàng không vốn có tính chất nguy hiểm cao, do đó việc để xảy ra chết người thể hiện mức độ coi thường quy định an toàn và trách nhiệm nghề nghiệp. Vì thế đây được xem là một trong những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn nhằm đảm bảo tính răn đe và cảnh tỉnh cho người có trách nhiệm trực tiếp.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên theo điểm b khoản 2 Điều 279 Bộ luật Hình sự 2015:
Trong trường hợp hành vi vi phạm không gây chết người nhưng làm một người bị thương tật với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên, hậu quả vẫn được coi là rất nghiêm trọng. Tổn hại này có thể khiến nạn nhân mất khả năng lao động hoặc phải gánh chịu di chứng lâu dài. Tình tiết này khẳng định việc vi phạm quy định an toàn bay không chỉ nguy hại đến tính mạng mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến sức khỏe con người. Do đó đây là một trong những tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn theo khoản 2 Điều 279 Bộ luật Hình sự 2015.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121% theo điểm c khoản 2 Điều 279 Bộ luật Hình sự 2015:
Khi hậu quả tác động đến nhiều người thì mức độ nguy hiểm được nâng cao hơn so với các trường hợp phạm tội thông thường khác. Trường hợp tổng tỷ lệ thương tật cộng gộp đạt mức 61% đến 121% phản ánh mức độ rủi ro đáng kể do hành vi vi phạm gây ra. Điều này cho thấy sự nguy hiểm không chỉ cho một cá nhân mà còn cho cộng đồng người tham gia hoạt động bay. Vì thế tình tiết này cần được áp dụng ở khung hình phạt cao hơn của Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn.
- Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng theo điểm d khoản 2 Điều 279 Bộ luật Hình sự 2015:
Ngoài thiệt hại về người thì hành vi vi phạm này còn có thể gây ra tổn thất tài sản như hỏng hóc máy bay, thiết bị và cơ sở hạ tầng hàng không. Nếu thiệt hại vật chất từ 100 triệu đến dưới 500 triệu đồng, đây là mức độ đủ để xác định hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, đòi hỏi xử lý hình sự ở khung cao hơn đảm bảo tính nghiêm hắc và răn đe hơn cho xã hội.
4.2. Các tình tiết định khung tăng nặng hình phạt theo khoản 3 Điều 279 Bộ luật Hình sự 2015:
- Làm chết 02 người theo điểm a khoản 3 Điều 279 Bộ luật Hình sự 2015:
Hậu quả chết người ở mức từ 2 người trở lên cho thấy tính chất đặc biệt nghiêm trọng của tội phạm. Trong lĩnh vực hàng không, một sai sót nhỏ cũng có thể gây thảm họa lớn, vì vậy việc để xảy ra hậu quả chết 2 người trở lên chứng minh mức độ nguy hiểm cao của hành vi vi phạm. Do đó khung hình phạt cần nghiêm khắc hơn so với các trường hợp khác.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200% theo điểm b khoản 3 Điều 279 Bộ luật Hình sự 2015:
Hậu quả vượt ngưỡng 121% và đạt đến 200% trở lên điều này đồng nghĩa nhiều người bị thương nặng và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng. Đây là tình tiết tăng nặng hình phạt của Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn, tình tiết này phản ánh sự lan tỏa nguy hiểm của hành vi đối với nhiều cá nhân cùng lúc.
- Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng theo điểm c khoản 3 Điều 279 Bộ luật Hình sự 2015:
Trong trường hợp hậu quả kinh tế ở mức từ nửa tỷ đến dưới 1,5 tỷ đồng, hậu quả này phản ánh thiệt hại rất lớn trong lĩnh vực hàng không (thường liên quan đến hỏng hóc nghiêm trọng máy bay hoặc thiết bị điều hành bay). Hậu quả này cho thấy sự lãng phí và thiệt hại cho nền kinh tế, vì vậy cần xử lý ở khung hình phạt cao hơn của Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn theo khoản 3 Điều 279 Bộ luật Hình sự 2015.
4.3. Các tình tiết định khung tăng nặng hình phạt theo khoản 4 Điều 279 Bộ luật Hình sự 2015:
- Làm chết 03 người trở lên theo điểm a khoản 4 Điều 279 Bộ luật Hình sự 2015:
Khi hậu quả đã làm từ 3 người trở lên tử vong thì tội phạm được xác định ở mức đặc biệt nghiêm trọng. Đây là tình tiết thể hiện sự nguy hiểm vượt ngưỡng chấp nhận, vì chỉ một hành vi thiếu trách nhiệm cũng có thể gây thảm kịch cho nhiều gia đình và xã hội. Do đó khung hình phạt nặng nhất của Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn được áp dụng trong trường hợp này.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên theo điểm b khoản 4 Điều 279 Bộ luật Hình sự 2015:
Tình tiết này phản ánh mức độ gây hại nghiêm trọng cho sức khỏe cộng đồng. Tổng tỷ lệ 201% trở lên cho thấy nhiều người bị tổn thương nặng, thậm chí mất khả năng lao động vĩnh viễn. Đây là dấu hiệu hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, làm tăng khung hình phạt đến mức cao nhất của Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn (12 đến 20 năm tù).
- Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên theo điểm c khoản 4 Điều 279 Bộ luật Hình sự 2015:
Trong lĩnh vực hàng không, thiệt hại tài sản ở mức từ 1,5 tỷ đồng trở lên thể hiện quy mô cực kỳ lớn (thường liên quan đến sự cố nghiêm trọng như: hỏng hóc nặng tàu bay, phá hủy thiết bị bảo đảm hoạt động bay hoặc cơ sở hạ tầng sân bay…). Đây là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng về kinh tế – xã hội, buộc phải xử lý ở khung hình phạt cao nhất theo khoản 4 Điều 279 Bộ luật Hình sự 2015.
5. Phân biệt với Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển tàu bay:
Tiêu chí | Tội đưa vào sử dụng tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay không bảo đảm an toàn (Điều 279 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển tàu bay (Điều 280 Bộ luật Hình sự 2015) |
Khách thể bị xâm hại | Chế độ quản lý an toàn kỹ thuật trong lĩnh vực hàng không, đặc biệt là tàu bay và thiết bị bảo đảm hoạt động bay. | Chế độ quản lý đội ngũ nhân sự lái tàu bay, cụ thể là điều kiện năng lực và giấy phép của người điều khiển. |
Hành vi phạm tội | Cho phép đưa vào sử dụng tàu bay hoặc thiết bị bảo đảm hoạt động bay rõ ràng không đạt tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật. | Điều động hoặc giao cho người không có giấy phép lái tàu bay hoặc không đủ điều kiện khác theo quy định để điều khiển tàu bay. |
Đối tượng tác động trực tiếp | Tàu bay, thiết bị phục vụ hoạt động bay (máy móc, thiết bị kiểm soát và điều hành bay). | Người lái tàu bay không đủ điều kiện (chưa có giấy phép, giấy phép hết hạn, không đủ trình độ chuyên môn hoặc sức khỏe). |
Chủ thể thực hiện | Người có trách nhiệm trực tiếp về điều động hoặc tình trạng kỹ thuật của tàu bay, thiết bị bảo đảm hoạt động bay. | Người có quyền điều động, phân công hoặc giao tàu bay cho người khác điều khiển. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. Khung 3: Phạt tù từ 08 năm đến 15 năm. Khung 4: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. | Khung 1: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Khung 4: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
THAM KHẢO THÊM: