Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam theo Điều 239 Bộ luật Hình sự năm 2015 là hành vi bị nghiêm cấm, nhằm bảo vệ môi trường, sức khỏe cộng đồng và an ninh quốc gia. Hành vi này gây nguy cơ ô nhiễm, thiệt hại môi trường hoặc sức khỏe con người và bị xử lý hình sự nghiêm minh theo mức độ hậu quả do pháp luật quy định.
Mục lục bài viết
1. Khái quát về tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam:
Việc đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam trái pháp luật có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, bao gồm ô nhiễm môi trường, nguy hại đến sức khỏe cộng đồng, phá hủy hệ sinh thái và ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh quốc gia. Chính vì vậy, pháp luật hình sự quy định về tội này nhằm đạt các mục tiêu sau:
- Bảo vệ môi trường: Ngăn chặn các hành vi nhập khẩu chất thải nguy hại vượt quá tiêu chuẩn cho phép hoặc chất thải độc hại, khó phân hủy theo Phụ lục A Công ước Stockholm. Hành vi này có thể gây ô nhiễm nguồn nước, đất, không khí và làm tổn hại lâu dài đến hệ sinh thái;
- Bảo vệ sức khỏe cộng đồng: Việc nhập khẩu và xử lý chất thải nguy hại trái phép tiềm ẩn nguy cơ sinh bệnh, tổn thương cơ thể cho cộng đồng dân cư xung quanh khu vực bị ảnh hưởng. Pháp luật đặt ra các khung hình phạt nghiêm khắc (từ 6 tháng đến 10 năm tù, khoản 1 đến khoản 3 Điều 239) để răn đe những hành vi gây hại đến sức khỏe con người;
- Bảo đảm an ninh quốc gia: Hành vi đưa chất thải trái phép, đặc biệt trong trường hợp có tổ chức, có thể là hình thức xâm nhập môi trường, phá hoại tiềm ẩn, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự công cộng. Bộ luật Hình sự quy định trách nhiệm nghiêm khắc đối với cá nhân và pháp nhân thương mại (khoản 5 Điều 239) để hạn chế rủi ro về an ninh và quản lý quốc gia đối với môi trường.
Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam được quy định tại Điều 239 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi năm 2025 như sau:
“Điều 239. Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam
1. Người nào đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 400.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đưa từ 1.000 kilôgam đến dưới 3.000 kilôgam chất thải nguy hại có thành phần nguy hại đặc biệt vượt ngưỡng chất thải nguy hại theo quy định của pháp luật hoặc có chứa chất phải loại trừ theo Phụ lục A Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy hoặc từ 3.000 kilôgam đến dưới 10.000 kilôgam chất thải nguy hại khác;
b) Đưa từ 70.000 kilôgam đến dưới 170.000 kilôgam chất thải khác.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 2.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Đưa từ 3.000 kilôgam đến dưới 5.000 kilôgam chất thải nguy hại có thành phần nguy hại đặc biệt vượt ngưỡng chất thải nguy hại theo quy định của pháp luật hoặc có chứa chất phải loại trừ theo Phụ lục A Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy hoặc từ 10.000 kilôgam đến dưới 50.000 kilôgam chất thải nguy hại khác;
c) Đưa từ 170.000 kilôgam đến dưới 300.000 kilôgam chất thải khác.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 4.000.000.000 đồng đến 10.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Đưa 5.000 kilôgam trở lên chất thải nguy hại có thành phần nguy hại đặc biệt vượt ngưỡng chất thải nguy hại theo quy định của pháp luật hoặc có chứa chất phải loại trừ theo Phụ lục A Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy hoặc 50.000 kilôgam trở lên chất thải nguy hại khác;
b) Đưa 300.000 kilôgam trở lên chất thải khác.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
5. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:
a) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ 2.000.000.000 đồng đến 6.000.000.000 đồng;
b) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 6.000.000.000 đồng đến 10.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 01 năm;
c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt liền từ 10.000.000.000 đồng đến 14.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 01 năm đến 03 năm;
d) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn;
đ) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định từ 01 năm đến 03 năm.”
2. Phân tích cấu thành Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam:
2.1. Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội phạm quy định tại Điều 239 Bộ luật Hình sự năm 2015 bao gồm:
- Cá nhân: Là người đủ năng lực trách nhiệm hình sự, từ đủ 16 tuổi trở lên, có hành vi đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam trái pháp luật thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 đến khoản 3 Điều 239. Cá nhân phạm tội có thể là người trực tiếp thực hiện hành vi nhập khẩu, vận chuyển hoặc thải bỏ chất thải nguy hại hoặc chất thải khác mà pháp luật cấm, bất kể là người trong nước hay nước ngoài nhưng hành vi xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam;
- Pháp nhân thương mại: Khoản 5 Điều 239 quy định rõ ràng rằng pháp nhân thương mại cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thực hiện hành vi đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam trái pháp luật. Pháp nhân thương mại phạm tội sẽ bị xử lý nghiêm với các biện pháp như phạt tiền, đình chỉ hoạt động tạm thời hoặc vĩnh viễn, cấm kinh doanh trong một số lĩnh vực, tùy theo mức độ và khối lượng chất thải. Đây là điểm đặc thù so với nhiều tội phạm khác, nhấn mạnh trách nhiệm hình sự của tổ chức trong việc bảo vệ môi trường.
Như vậy, cả cá nhân và pháp nhân thương mại đều có thể trở thành chủ thể của tội phạm này nếu tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc đưa chất thải trái pháp luật vào Việt Nam, với vai trò và trách nhiệm khác nhau tùy theo bản chất hành vi và đối tượng phạm tội.
2.2. Khách thể của tội phạm:
Khách thể là quyền lợi được pháp luật hình sự bảo vệ, trong trường hợp này là những quyền lợi quan trọng liên quan đến:
- Môi trường: Hành vi đưa chất thải nguy hại hoặc chất thải khác với khối lượng lớn vào Việt Nam mà không tuân thủ pháp luật sẽ gây ô nhiễm môi trường, phá hủy hệ sinh thái, làm mất cân bằng sinh thái và ảnh hưởng lâu dài đến chất lượng sống của cộng đồng;
- Sức khỏe con người: Các chất thải nguy hại, đặc biệt là chất phải loại trừ theo Phụ lục A Công ước Stockholm, có thể gây ra bệnh tật, tổn thương cơ thể hoặc làm tăng nguy cơ ung thư, các bệnh mãn tính cho người dân sinh sống trong vùng ảnh hưởng;
- An ninh quốc gia và trật tự công cộng: Việc nhập khẩu chất thải trái phép với quy mô lớn, có tổ chức, có thể gây ra các rủi ro về an ninh môi trường, xâm hại tài nguyên quốc gia, ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về môi trường và tiềm ẩn nguy cơ đe dọa trật tự công cộng.
Mục đích bảo vệ các khách thể này là lý do Bộ luật Hình sự quy định khung hình phạt nghiêm khắc, đồng thời mở rộng trách nhiệm hình sự sang cả pháp nhân thương mại.
2.3. Mặt khách quan:
Mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành vi cụ thể bị pháp luật cấm, bao gồm:
Đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam trái pháp luật:
- Bao gồm hành vi nhập khẩu, vận chuyển hoặc thải bỏ chất thải nguy hại hoặc chất thải khác mà không có giấy phép hoặc vượt quá khối lượng, thành phần nguy hại theo quy định (Điều 239 khoản 1–3);
- Chất thải nguy hại có thành phần đặc biệt vượt ngưỡng chất thải nguy hại theo pháp luật hoặc chứa chất phải loại trừ theo Phụ lục A Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy;
- Khối lượng chất thải quyết định mức độ hình phạt: từ vài tấn đến hàng trăm tấn, tương ứng với các khoản 1, 2, 3 Điều 239.
Hình thức thực hiện hành vi:
- Có thể thực hiện trực tiếp hoặc thông qua người khác, thông qua pháp nhân thương mại hoặc có tổ chức, với sự phân công nhiệm vụ cụ thể;
- Trường hợp có tổ chức, pháp luật quy định mức xử lý nghiêm hơn (Điều 239 khoản 2), nhằm răn đe các hành vi vi phạm có quy mô lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và cộng đồng.
Hậu quả pháp lý:
- Vi phạm sẽ dẫn đến các khung hình phạt từ phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù từ 06 tháng đến 10 năm tùy theo khối lượng và tính chất chất thải (Điều 239 khoản 1–3);
- Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm (Điều 239 khoản 4);
- Pháp nhân thương mại có thể bị phạt tiền lớn, đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc vĩnh viễn, cấm kinh doanh trong một số lĩnh vực (Điều 239 khoản 5).
Mặt khách quan không chỉ tập trung vào hành vi đưa chất thải mà còn bao gồm phương thức thực hiện, khối lượng, loại chất thải, tổ chức thực hiện và hậu quả tiềm ẩn, thể hiện tính răn đe và phòng ngừa của pháp luật.
2.4. Mặt chủ quan:
Mặt chủ quan của tội phạm là lỗi và nhận thức của người phạm tội, thể hiện như sau:
- Cố ý trực tiếp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vẫn tiến hành đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam. Đây là trường hợp phổ biến và cơ bản nhất trong các vụ án liên quan tới Điều 239, đặc biệt khi chất thải vượt quá ngưỡng nguy hại hoặc chứa các chất phải loại trừ;
- Cố ý gián tiếp: Người phạm tội nhận biết hành vi của mình có thể gây hậu quả pháp lý nhưng vẫn tiếp tục, hoặc không quan tâm đến việc hành vi của mình có vi phạm pháp luật hay không;
- Vô ý: Bộ luật Hình sự không quy định cụ thể hình thức vô ý cho tội này, do đó các hành vi nhập khẩu, vận chuyển chất thải trái phép chủ yếu được coi là cố ý. Tuy nhiên, trong trường hợp cá nhân hoặc pháp nhân có biện pháp phòng ngừa hợp lý nhưng vẫn xảy ra vi phạm, có thể xem xét là giảm nhẹ hình phạt.
Mặt chủ quan nhấn mạnh yếu tố nhận thức và ý chí của người phạm tội. Khi xác định trách nhiệm hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng cần làm rõ người thực hiện có biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật và hậu quả tiềm ẩn, từ đó áp dụng đúng khung hình phạt quy định tại Điều 239.
3. Hình phạt của tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam:
3.1. Hình phạt chính theo Điều 239 Bộ luật Hình sự:
Hình phạt chính đối với tội phạm này bao gồm phạt tiền và phạt tù, được quy định theo khối lượng chất thải, tính chất nguy hại của chất thải, cũng như các yếu tố tăng nặng như có tổ chức. Cụ thể:
Phạm tội ở mức độ cơ bản (khoản 1 Điều 239):
- Áp dụng cho hành vi đưa vào Việt Nam từ 1.000 đến dưới 3.000 kilôgam chất thải nguy hại đặc biệt hoặc từ 3.000 đến dưới 10.000 kilôgam chất thải nguy hại khác, hoặc từ 70.000 đến dưới 170.000 kilôgam chất thải khác;
- Hình phạt chính bao gồm phạt tiền từ 400.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm, hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm;
- Mức hình phạt này phản ánh việc pháp luật cân nhắc giữa mức độ nguy hại của chất thải và khả năng kiểm soát hành vi của người phạm tội. Hình phạt tù dưới 03 năm cho thấy tính chất răn đe và phòng ngừa nhưng vẫn ghi nhận mức độ chưa quá nghiêm trọng.
Phạm tội ở mức độ có tổ chức hoặc lớn hơn (khoản 2 Điều 239):
- Áp dụng cho hành vi đưa từ 3.000 đến dưới 5.000 kilôgam chất thải nguy hại đặc biệt, từ 10.000 đến dưới 50.000 kilôgam chất thải nguy hại khác, từ 170.000 đến dưới 300.000 kilôgam chất thải khác, hoặc hành vi có tổ chức;
- Hình phạt chính là phạt tiền từ 2.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm;
- Sự xuất hiện yếu tố “có tổ chức” hoặc tăng khối lượng chất thải làm tăng mức độ nguy hiểm cho môi trường và xã hội, vì vậy pháp luật nâng khung hình phạt lên để tạo hiệu ứng răn đe mạnh hơn.
Phạm tội ở mức độ nghiêm trọng nhất (khoản 3 Điều 239):
- Áp dụng cho hành vi đưa 5.000 kilôgam trở lên chất thải nguy hại đặc biệt hoặc 50.000 kilôgam trở lên chất thải nguy hại khác, hoặc 300.000 kilôgam trở lên chất thải khác;
- Hình phạt chính là phạt tiền từ 4.000.000.000 đồng đến 10.000.000.000 đồng, hoặc phạt tù từ 05 năm đến 10 năm;
- Khung hình phạt này phản ánh mức độ nguy hại tối đa của hành vi, đặc biệt là khi có lượng chất thải lớn và khả năng gây ô nhiễm nghiêm trọng cho môi trường, sức khỏe cộng đồng và an ninh quốc gia. Hình phạt tiền rất cao nhằm đảm bảo khả năng bồi thường và khắc phục hậu quả, đồng thời tăng cường tính răn đe.
Hình phạt đối với pháp nhân thương mại (khoản 5 Điều 239):
- Khi pháp nhân thương mại thực hiện hành vi phạm tội, hình phạt có thể bao gồm:
- Phạt tiền từ 2.000.000.000 đồng đến 14.000.000.000 đồng tùy theo mức độ phạm tội (tương ứng với các khoản 1, 2, 3);
- Đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm, hoặc vĩnh viễn nếu phạm tội thuộc Điều 79;
- Có thể kết hợp với cấm kinh doanh hoặc cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định từ 01 năm đến 03 năm.
Pháp nhân thương mại được coi là chủ thể pháp lý độc lập, do đó mức xử lý tập trung vào khả năng tài chính, sự kiểm soát hoạt động của tổ chức và tính nguy hại tiềm tàng đối với xã hội. Việc đình chỉ hoạt động là biện pháp phòng ngừa quan trọng, tránh việc tái phạm và bảo vệ môi trường, sức khỏe cộng đồng.
3.2. Hình phạt bổ sung:
Ngoài hình phạt chính, Điều 239 còn quy định hình phạt bổ sung nhằm tăng hiệu quả răn đe và đảm bảo tính phòng ngừa:
- Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định (khoản 4 Điều 239):
- Người phạm tội có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm;
- Biện pháp này nhằm loại trừ người phạm tội khỏi các vị trí có khả năng tiếp tục thực hiện hành vi nguy hại hoặc gây ảnh hưởng đến quản lý môi trường, bảo vệ tài nguyên quốc gia.
Bổ sung đối với pháp nhân thương mại:
- Có thể bị cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định từ 01 năm đến 03 năm (Điều 239 khoản 5 điểm đ);
- Đây là biện pháp bổ sung đặc thù dành cho tổ chức, nhằm đảm bảo không tái phạm và kiểm soát rủi ro do hoạt động của pháp nhân gây ra cho xã hội và môi trường.
Khắc phục hậu quả:
- Pháp luật hình sự và các quy định về môi trường có thể yêu cầu người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại thực hiện bồi thường thiệt hại, xử lý chất thải theo quy định pháp luật;
- Việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả vừa đảm bảo quyền lợi cho người bị ảnh hưởng, vừa phục hồi môi trường, vừa là yếu tố giảm nhẹ hình phạt nếu người phạm tội chủ động khắc phục hậu quả.
4. Các tình tiết tăng nặng theo Điều 239 Bộ luật Hình sự 2015:
Điều 239 Bộ luật Hình sự 2015 về tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam đã xác định các mức độ xử lý hình sự dựa trên mức độ nguy hại của chất thải, khối lượng chất thải và các yếu tố tình tiết tăng nặng. Việc xác định khung tăng nặng là cơ sở pháp lý để áp dụng hình phạt nghiêm minh, phù hợp với mức độ nguy hại của hành vi, đồng thời đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa.
4.1. Các tình tiết tăng nặng theo khoản 2 Điều 239:
Khoản 2 Điều 239 quy định các tình tiết tăng nặng khi phạm tội, cụ thể:
Có tổ chức (Điều 239 khoản 2 điểm a):
- Hành vi đưa chất thải vào Việt Nam được thực hiện theo kế hoạch, có sự phối hợp của nhiều người hoặc nhiều bộ phận, tức là có tổ chức, không phải hành vi đơn lẻ, tự phát;
- Tình tiết “có tổ chức” làm tăng mức độ nguy hiểm xã hội của hành vi, vì khả năng thực hiện hành vi tái phạm cao, phạm vi thiệt hại rộng và khó kiểm soát. Do đó, pháp luật nâng mức hình phạt lên phạt tiền từ 2.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm, thay vì khung thấp hơn theo khoản 1.
Khối lượng chất thải vượt ngưỡng quy định pháp luật (Điều 239 khoản 2 điểm b, c):
- Đưa từ 3.000 kilôgam đến dưới 5.000 kilôgam chất thải nguy hại có thành phần nguy hại đặc biệt hoặc từ 10.000 kilôgam đến dưới 50.000 kilôgam chất thải nguy hại khác;
- Đưa từ 170.000 kilôgam đến dưới 300.000 kilôgam chất thải khác;
- Khối lượng chất thải lớn hơn mức quy định cơ bản cho thấy hành vi nguy hại hơn, có khả năng gây ô nhiễm môi trường rộng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng và hệ sinh thái. Việc tăng khung hình phạt nhằm vừa răn đe cá nhân, vừa cảnh báo cho xã hội về mức độ nguy hại của hành vi.
Như vậy, Khoản 2 Điều 239 xác định tình tiết tăng nặng là có tổ chức và khối lượng chất thải vượt ngưỡng mức cơ bản, từ đó nâng khung hình phạt tiền và tù, đảm bảo mức xử lý tương xứng với nguy cơ và thiệt hại tiềm tàng.
4.2. Các tình tiết tăng nặng theo khoản 3 Điều 239:
Khoản 3 Điều 239 xác định các tình tiết nghiêm trọng nhất, áp dụng khi hành vi phạm tội đạt mức độ đặc biệt nguy hiểm:
Khối lượng chất thải cực lớn:
- Đưa 5.000 kilôgam trở lên chất thải nguy hại có thành phần nguy hại đặc biệt, hoặc 50.000 kilôgam trở lên chất thải nguy hại khác, hoặc 300.000 kilôgam trở lên chất thải khác;
- Khối lượng chất thải ở mức này được coi là cực kỳ nguy hại, có khả năng gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, tác động lâu dài tới sức khỏe cộng đồng, an ninh quốc gia và hệ sinh thái. Đây là mức tăng nặng tối đa trong Điều 239, pháp luật áp dụng phạt tiền từ 4.000.000.000 đồng đến 10.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
Tổ chức có hệ thống, có chủ ý gây hậu quả nghiêm trọng:
- Khi hành vi được thực hiện bởi nhóm người có kế hoạch chặt chẽ, phân công rõ ràng, nhằm trốn tránh pháp luật hoặc thu lợi bất hợp pháp lớn;
- Sự xuất hiện yếu tố tổ chức chặt chẽ kết hợp khối lượng chất thải cực lớn làm tăng nguy cơ thiệt hại, pháp luật xem đây là hành vi có tính hệ thống, cần xử lý nghiêm minh hơn cả các trường hợp tại khoản 2.
Khung hình phạt bổ sung khi tăng nặng:
- Ngoài hình phạt chính là tiền và tù, người phạm tội còn có thể chịu các hình phạt bổ sung theo khoản 4 Điều 239, bao gồm cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm;
- Các biện pháp bổ sung này nhằm đảm bảo người phạm tội không tiếp tục thực hiện hành vi nguy hại và bảo vệ hệ sinh thái pháp lý.
Như vậy, Khoản 3 Điều 239 quy định tình tiết tăng nặng nghiêm trọng nhất, chủ yếu dựa trên khối lượng chất thải cực lớn và tổ chức có kế hoạch. Mức hình phạt cao nhất về tiền và tù nhằm đảm bảo răn đe tối đa, phòng ngừa nguy cơ gây hậu quả nghiêm trọng đối với xã hội và môi trường.
5. So sánh với Tội gây ô nhiễm môi trường:
Tiêu chí so sánh | Tội gây ô nhiễm môi trường (Điều 235 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam (Điều 239 Bộ luật Hình sự 2015) |
Về chủ thể và đối tượng của hành vi | Chủ thể: Cá nhân hoặc pháp nhân thương mại thực hiện hành vi xả thải, chôn lấp, đổ hoặc phát tán chất thải nguy hại, nước thải, khí thải, chất phóng xạ vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường (khoản 1, khoản 5 Điều 235). Đối tượng bảo vệ: Môi trường tự nhiên trong lãnh thổ Việt Nam bao gồm không khí, đất, nước và các yếu tố sinh thái liên quan. | Chủ thể: Cá nhân hoặc pháp nhân thương mại thực hiện hành vi đưa chất thải từ nước ngoài vào Việt Nam trái quy định pháp luật. Đối tượng bảo vệ: Trật tự quản lý nhà nước về nhập khẩu chất thải và an toàn môi trường quốc gia. |
Về hành vi khách quan | Hành vi: Xả thải, chôn lấp, đổ bỏ, phát tán chất thải vượt quy chuẩn, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Phân hóa: Dựa trên khối lượng, nồng độ, tần suất vi phạm và hậu quả thực tế. Ví dụ: xả nước thải có thông số nguy hại vượt quy chuẩn từ 5 đến dưới 10 lần với khối lượng 500 m³/ngày đến dưới 5.000 m³/ngày sẽ thuộc khung hình phạt cao hơn (khoản 2 Điều 235). | Hành vi: Đưa chất thải nguy hại hoặc chất thải khác vào Việt Nam trái pháp luật, không phân biệt việc xả ra môi trường hay chỉ lưu giữ tạm thời. Phân hóa: Dựa theo khối lượng chất thải nhập khẩu và tính chất tổ chức của hành vi. Ví dụ: nhập 5.000 kg chất thải nguy hại hoặc 300.000 kg chất thải khác bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm (khoản 3 Điều 239). |
Về mức độ lỗi và tính chất hành vi | Lỗi: Cố ý trực tiếp hoặc gián tiếp người phạm tội nhận thức được tính nguy hại của hành vi nhưng vẫn thực hiện. Tính chất hành vi: Có thể do hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc vận hành không đảm bảo quy chuẩn kỹ thuật, không nhất thiết có tổ chức. | Lỗi: Cố ý trực tiếp, thường kèm yếu tố tổ chức, chủ đích, vụ lợi, có kế hoạch nhập khẩu chất thải trái phép. Tính chất hành vi: Có thể mang tính xuyên quốc gia, thực hiện có tổ chức, chuyên nghiệp. |
Về hậu quả pháp lý và hình phạt | Căn cứ xử lý: Dựa vào mức độ ô nhiễm gây ra cho môi trường và hậu quả đối với sức khỏe, cộng đồng. Hình phạt: Phạt tù từ 06 tháng đến 10 năm tùy mức độ hậu quả (khoản 1–3 Điều 235); có thể kèm cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề từ 01–05 năm (khoản 4 Điều 235). | Căn cứ xử lý: Dựa trên khối lượng chất thải nhập khẩu và tính tổ chức của hành vi. Hình phạt: Phạt tù đến 10 năm (khoản 3 Điều 239); phạt tiền từ 500 triệu đồng đến 5 tỷ đồng đối với pháp nhân thương mại (khoản 5 Điều 239). |
Về trách nhiệm pháp nhân thương mại | Pháp nhân thương mại có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu tổ chức hoặc cho phép thực hiện hành vi xả thải trái pháp luật (khoản 5 Điều 235). Hình phạt: Phạt tiền, đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc vĩnh viễn; có thể áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả (thu hồi, xử lý chất thải). | Pháp nhân thương mại cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thực hiện hoặc cho phép đưa chất thải vào Việt Nam trái phép (khoản 5 Điều 239). Hình phạt: Phạt tiền, đình chỉ hoạt động, hoặc cấm kinh doanh trong lĩnh vực nhất định. |
Về mục tiêu bảo vệ pháp lý | Bảo vệ môi trường sinh thái, sức khỏe cộng đồng và trật tự an toàn xã hội trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. | Bảo vệ chủ quyền môi trường quốc gia, trật tự quản lý xuất nhập khẩu chất thải, phòng ngừa hành vi “xuất khẩu rác” từ nước ngoài vào Việt Nam. |
Kết luận phân biệt | Hành vi xả, thải, chôn lấp hoặc phát tán chất thải gây ô nhiễm trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. | Hành vi nhập khẩu, đưa chất thải từ nước ngoài vào lãnh thổ Việt Nam trái quy định. |
THAM KHẢO THÊM: