Tội đào nhiệm được quy định tại Điều 363 Bộ luật Hình sự 2015 nhằm xử lý hành vi của cán bộ, công chức, viên chức cố ý từ bỏ nhiệm vụ công tác gây hậu quả nghiêm trọng. Quy định này góp phần giữ vững kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động công vụ và nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ trong bộ máy nhà nước.
Mục lục bài viết
1. Khái quát chung về Tội đào nhiệm:
1.1. Tội đào nhiệm được hiểu như thế nào?
Trong bối cảnh hiện nay, Tội đào nhiệm tuy không phổ biến như một số tội danh khác trong lĩnh vực hành chính công vụ nhưng vẫn có chiều hướng gia tăng, đặc biệt tại các địa phương khó khăn, vùng sâu, vùng xa hoặc trong những thời điểm xã hội gặp biến động như dịch bệnh, thiên tai, chiến tranh hoặc áp lực cải cách hành chính.
Một số biểu hiện thực tế bao gồm:
- Cán bộ, công chức tự ý bỏ việc để chuyển sang khu vực tư nhân với thu nhập cao hơn mà không được phép của cơ quan chủ quản.
- Viên chức rời bỏ nhiệm vụ đột ngột, gây đình trệ hoạt động của cơ quan, đơn vị; đặc biệt trong các ngành thiết yếu như giáo dục, y tế.
- Có trường hợp lợi dụng hoàn cảnh khó khăn hay điều kiện công tác khắc nghiệt để thoái thác trách nhiệm mà không tuân thủ quy định pháp luật.
Tuy nhiên, công tác xử lý đối với tội danh này vẫn còn nhiều hạn chế do việc chứng minh hậu quả nghiêm trọng không dễ dàng hoặc do tâm lý nể nang, e ngại ảnh hưởng đến uy tín cơ quan, tổ chức.
Có thể đưa ra khái niệm về Tội đào nhiệm như sau:
“Tội đào nhiệm là hành vi của cán bộ, công chức, viên chức cố ý từ bỏ nhiệm vụ công tác, không thực hiện trách nhiệm được giao theo quy định pháp luật, gây hậu quả nghiêm trọng đến hoạt động của cơ quan, tổ chức hoặc xã hội. Đây là hành vi thể hiện sự vô trách nhiệm, thiếu ý thức tổ chức, kỷ luật và làm xói mòn tính nghiêm minh của bộ máy hành chính Nhà nước.”
1.2. Ý nghĩa của tội danh trong pháp luật hình sự:
Việc quy định tội đào nhiệm trong Bộ luật Hình sự có những ý nghĩa quan trọng về mặt pháp lý, chính trị và xã hội, cụ thể:
- Thứ nhất: Bảo đảm tính nghiêm minh, kỷ cương trong hoạt động công vụ và góp phần duy trì trật tự, kỷ luật hành chính công vụ trong bộ máy Nhà nước.
- Thứ hai: Răn đe và phòng ngừa hành vi vô trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi nhiệm vụ; nhất là trong các lĩnh vực trọng yếu và giai đoạn xã hội khó khăn.
- Thứ ba: Thể hiện trách nhiệm pháp lý của đội ngũ công chức trước Nhà nước và nhân dân; góp phần nâng cao ý thức đạo đức công vụ và tinh thần phục vụ.
- Thứ tư: Góp phần bảo vệ quyền lợi của tổ chức và người dân khỏi các hậu quả tiêu cực do sự bất hợp tác, từ bỏ nhiệm vụ của người có trách nhiệm gây ra.
1.3. Cơ sở pháp lý trong Bộ luật Hình sự 2015:
Tội đào nhiệm hiện nay đang được quy định tại Điều 363 Bộ luật Hình sự 2015:
“1. Người nào là cán bộ, công chức, viên chức mà cố ý từ bỏ nhiệm vụ công tác gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Lôi kéo người khác đào nhiệm;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng;
c) Phạm tội trong hoàn cảnh chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh hoặc trong trường hợp khó khăn đặc biệt khác của xã hội.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội đào nhiệm:
2.1. Khách thể:
Tội đào nhiệm xâm phạm trực tiếp đến: Chế độ kỷ luật của Nhà nước đối với cán bộ, công chức và viên chức. Đây được xem là mối quan hệ mà ở bất kỳ thời kỳ nào Nhà nước ta luôn đặt cao trong công công tác quản lý.
2.2. Mặt khách quan:
Tội đào nhiệm chỉ xoay quanh một hành vi khách quan duy nhất là: Từ bỏ nhiệm vụ công tác.
Hành vi này có nhiều biểu hiện cụ thể như:
- Bỏ cơ quan, tổ chức nơi mình đang là cán bộ, công chức;
- Không thực hiện nhiệm vụ được giao;
- Hoặc các hình thức khác thể hiện sự cố ý từ bỏ trách nhiệm công vụ.
Một trong những biểu hiện phổ biến là bỏ cơ quan, tổ chức nơi đang công tác; tức là tự ý nghỉ việc để chuyển sang làm việc tại nơi khác mà không được sự chấp thuận của người có thẩm quyền. Trong nhiều trường hợp, người vi phạm từ bỏ luôn vị trí cán bộ, công chức để chuyển sang công việc có thu nhập cao hơn như: nghỉ làm tại cơ quan Nhà nước để kinh doanh tư nhân, rời bệnh viện công để mở phòng khám riêng… Hành vi này về bản chất tương tự như hành vi đào ngũ trong lực lượng vũ trang – tức là rời bỏ hoàn toàn tổ chức mà mình có trách nhiệm phục vụ. Đây là loại hành vi dễ nhận diện nhất.
Tuy nhiên, cần phân biệt với trường hợp người cán bộ, công chức đã nộp đơn xin nghỉ việc hoặc thông báo nghỉ việc đúng quy trình nhưng quá thời hạn giải quyết mà không nhận được phản hồi từ cơ quan, tổ chức. Nếu trong hoàn cảnh đó người này nghỉ việc thì không được coi là đào nhiệm. Ngược lại, nếu đã có thông báo chính thức không chấp thuận nghỉ việc mà vẫn cố tình bỏ nhiệm vụ, gây hậu quả nghiêm trọng, thì vẫn có thể bị xử lý về hành vi đào nhiệm.
Một biểu hiện khác là không thực hiện nhiệm vụ được giao, dù vẫn đang giữ vị trí công tác. Ví dụ: một giáo viên được phân công dạy học ở vùng cao nhưng sau một thời gian bỏ về quê vì không chịu được khó khăn, dẫn đến thiếu hụt giáo viên, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng học tập của học sinh. Đây là hành vi từ bỏ nhiệm vụ mà theo quy định, người cán bộ, công chức có nghĩa vụ thực hiện.
Điều quan trọng là nhiệm vụ bị từ bỏ phải là nhiệm vụ công vụ và được giao theo quy định pháp luật hoặc theo điều lệ của cơ quan, tổ chức – dù là nhiệm vụ thường xuyên hay đột xuất. Nếu nhiệm vụ không mang tính chất công vụ thì hành vi từ bỏ chỉ được xem xét dưới góc độ vi phạm kỷ luật hoặc luật lao động, chứ không cấu thành tội đào nhiệm.
Về mặt hậu quả, hành vi đào nhiệm thường dẫn đến những thiệt hại vật chất và phi vật chất cho cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có liên quan. Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội phạm này.
Nếu hành vi đào nhiệm chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng thì chưa cấu thành tội phạm. Ngược lại, nếu gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 của Điều 363 Bộ luật Hình sự 2015.
2.3. Mặt chủ quan:
Đối với Tội đào nhiệm, người tự ý cố tình bỏ trách nhiệm của bản thân được giao nhưng hậu quả xảy ra thì không mong muốn, họ có thể bỏ mặc cho hậu quả đó xảy ra không quan tâm đến hậu quả, họ chỉ cố ý thực hiện hành vi (từ bỏ nhiệm vụ) còn hậu quả như thế nào họ không quan tâm.
Có nhiều trường hợp người phạm tội không biết hậu quả xảy ra hay không, đến khi hậu quả xảy ra họ mới biết, tuy họ đã thấy trước được hậu quả nhưng cho rằng hậu quả đó không xảy ra hoặc xảy ra nhưng không nghiêm trọng, hoặc có thể khắc phục được.
2.4. Chủ thể:
Chủ thể của Tội đào nhiệm cũng là chủ thể đặc biệt. Chỉ có cán bộ, công chức mới có thể là chủ thể của tội phạm này.
3. Khung hình phạt của Tội đào nhiệm:
Tội đào nhiệm theo quy định tại Điều 363 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội đào nhiệm:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội đào nhiệm được quy định tại khoản 2 với khung hình phạt là phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
- Lôi kéo người khác đào nhiệm:
Hành vi lôi kéo người khác đào nhiệm thể hiện mức độ nguy hiểm cao hơn so với hành vi đào nhiệm đơn lẻ. Người phạm tội không chỉ từ bỏ nhiệm vụ công tác của chính mình mà còn tác động, rủ rê, kích động hoặc thuyết phục người khác cùng thực hiện hành vi vi phạm. Điều này làm gia tăng hậu quả tiêu cực cho cơ quan, tổ chức; thậm chí có thể gây xáo trộn nghiêm trọng trong bộ máy hoạt động công vụ. Do tính chất lan truyền và ảnh hưởng đến nhiều người nên tình tiết này được xem là tình tiết định khung tăng nặng, thể hiện thái độ nghiêm khắc của pháp luật nhằm răn đe hành vi xâm phạm kỷ luật công vụ có tính chất tổ chức.
- Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng:
Khi hành vi đào nhiệm dẫn đến hậu quả ở mức rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi này bị đẩy lên cao hơn. Hậu quả có thể bao gồm thiệt hại lớn về tài sản, làm đình trệ hoạt động quản lý nhà nước, gây mất ổn định an ninh xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân hoặc tổ chức khác. Việc xác định mức độ hậu quả dựa vào quy định cụ thể của pháp luật hoặc kết luận của cơ quan chức năng có thẩm quyền. Đây là yếu tố thể hiện hậu quả thực tiễn của hành vi vi phạm và cũng là căn cứ để áp dụng hình phạt nghiêm khắc hơn đối với người phạm tội.
- Phạm tội trong hoàn cảnh chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh hoặc trong trường hợp khó khăn đặc biệt khác của xã hội:
Việc phạm tội trong các bối cảnh xã hội đặc biệt như chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh hoặc các hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác được xem là tình tiết tăng nặng bởi đây là những thời điểm mà bộ máy nhà nước, các cơ quan công quyền rất cần sự ổn định, đoàn kết và tinh thần trách nhiệm cao của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Hành vi đào nhiệm trong hoàn cảnh này không chỉ thể hiện sự vô trách nhiệm cá nhân mà còn đi ngược lại lợi ích chung của toàn xã hội, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng ứng phó và điều hành của nhà nước. Do đó, pháp luật quy định đây là tình tiết định khung để áp dụng hình phạt cao hơn nhằm bảo vệ trật tự, kỷ luật công vụ trong những thời điểm khó khăn.
5. Phân biệt với Tội đưa hối lộ:
Tiêu chí | Tội đào nhiệm (Điều 363 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội đưa hối lộ (Điều 364 Bộ luật Hình sự 2015) |
---|---|---|
Chủ thể | Cán bộ, công chức, viên chức. | Bất kỳ người nào (kể cả cá nhân, tổ chức); có thể là công dân, tổ chức trong và ngoài nhà nước. |
Hành vi phạm tội | Cố ý từ bỏ nhiệm vụ công tác, gây hậu quả nghiêm trọng. | Đưa hoặc sẽ đưa lợi ích (vật chất hoặc phi vật chất) cho người có chức vụ, quyền hạn để làm hoặc không làm một việc. |
Mục đích | Trốn tránh nhiệm vụ, trách nhiệm công vụ. | Đạt được lợi ích cá nhân hoặc yêu cầu một hành vi trái pháp luật từ người có chức vụ. |
Hậu quả | Phải gây ra hậu quả nghiêm trọng mới cấu thành tội. | Không cần gây hậu quả thực tế; chỉ cần thực hiện hành vi là có thể cấu thành tội. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. | Khung 1: Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 12 năm. Khung 4: hạt tù từ 12 năm đến 20 năm. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. |
Phạm vi áp dụng mở rộng | Chỉ áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức Việt Nam. | Áp dụng cả với người đưa hối lộ cho công chức nước ngoài, tổ chức quốc tế, hoặc người có chức vụ trong doanh nghiệp ngoài nhà nước (khoản 6). |
Ngoại lệ | Không quy định về trường hợp này. | Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì được coi là không có tội và được trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ. Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ. |
THAM KHẢO THÊM: