Tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử hoặc chấp hành án phạt tù là hành vi xâm phạm hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng, gây cản trở công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án và hiện nay đang được quy định tại Điều 387 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát về Tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt tù:
- 2 2. Cấu thành Tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt tù:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt tù:
- 4 4. Các tình tiết định khung tăng nặng theo Điều 387 Bộ luật Hình sự 2015:
- 5 5. Phân biệt với Tội chống phá cơ sở giam giữ:
1. Khái quát về Tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt tù:
1.1. Khái niệm:
Xuất phát từ mục đích bảo vệ an toàn của người thi hành công vụ, bảo đảm tính hiệu quả của công tác quản lý người bị giam giữ và duy trì trật tự trong hoạt động tố tụng, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định Tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử hoặc chấp hành án phạt tù tại Điều 387. Đây là tội danh phản ánh rõ quan điểm của Nhà nước trong việc kiên quyết xử lý các hành vi chống đối cơ quan tư pháp, xâm phạm đến quyền lực công và an ninh tư pháp quốc gia.
Có thể đưa ra khái niệm về tội danh này như sau:
“Tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử hoặc chấp hành án phạt tù là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác nhằm giải thoát cho người đang bị bắt, tạm giữ, tạm giam, đang bị áp giải, xét xử hoặc đang chấp hành án phạt tù, qua đó cản trở hoặc phá vỡ hoạt động tư pháp hợp pháp của cơ quan nhà nước.”
1.2. Ý nghĩa:
- Thứ nhất: Bảo đảm an ninh, trật tự và tính nghiêm minh trong hoạt động tư pháp. Quy định tội danh này nhằm bảo vệ tính công bằng, hiệu quả và trật tự của quá trình tố tụng hình sự. Việc đánh tháo người bị bắt hay đang chấp hành án là hành vi trực tiếp phá hoại kết quả của hoạt động điều tra, xét xử và thi hành án, làm mất hiệu lực cưỡng chế của pháp luật. Xử lý nghiêm hành vi này góp phần răn đe và ngăn chặn các hành vi chống người thi hành công vụ, bảo vệ trật tự an ninh tại nơi giam giữ và xét xử.
- Thứ hai: Bảo vệ quyền lực của cơ quan Nhà nước trong thi hành pháp luật hình sự. Tội danh này không chỉ bảo vệ người bị giam giữ mà còn bảo vệ uy tín, quyền hạn và tính hợp pháp của cơ quan điều tra, tòa án, trại giam, trại tạm giữ. Việc xử lý hành vi đánh tháo giúp khẳng định tính tối thượng của pháp luật và bảo đảm mọi cá nhân, dù có quan hệ thân thiết với người phạm tội cũng không được phép can thiệp và gây cản trở việc thực thi bản án hay quyết định của Tòa án.
- Thứ ba: Góp phần phòng ngừa tội phạm và giữ vững an ninh xã hội. Hành vi đánh tháo thường mang tính bột phát, manh động, dễ kéo theo các hành vi phạm tội khác như chống người thi hành công vụ, gây thương tích hoặc tẩu tán người phạm tội. Việc quy định và áp dụng tội danh này có ý nghĩa phòng ngừa từ sớm, từ xa; tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan chức năng kiểm soát chặt chẽ các khâu trong hoạt động giam giữ, áp giải và xét xử.
- Thứ tư: Thể hiện nguyên tắc thượng tôn pháp luật và bình đẳng trước pháp luật. Mọi cá nhân, tổ chức đều có nghĩa vụ tôn trọng, chấp hành và bảo vệ các quyết định của cơ quan tư pháp. Mọi hành vi đánh tháo dù xuất phát từ động cơ tình cảm hay tư lợi thì đều bị coi là xâm phạm nghiêm trọng trật tự quản lý hành chính tư pháp. Do đó phải được xử lý nghiêm minh để bảo đảm tính công bằng, khách quan và kỷ luật pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
1.3. Cơ sở pháp lý:
Tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt tù hiện nay đang được quy định tại Điều 387 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào đánh tháo người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử hoặc chấp hành án phạt tù, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 119 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Dùng vũ lực đối với người canh gác hoặc người áp giải;
d) Đánh tháo người bị kết án về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc người bị kết án tử hình.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành Tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt tù:
2.1. Khách thể:
Tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử hoặc chấp hành án phạt tù là hành vi xâm phạm đến hoạt động bình thường, đúng đắn của các cơ quan tiến hành tố tụng, làm cản trở, gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự của Nhà nước.
Đối tượng mà người phạm tội hướng tới trong hành vi này không phải là lực lượng canh gác, bảo vệ hay áp giải, mà chính là người đang bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang chấp hành án phạt tù. Thông qua việc tác động, giải thoát trái phép đối với những người này, người phạm tội đã gián tiếp xâm phạm đến trật tự, kỷ luật và hiệu lực hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Như vậy, khách thể của tội phạm danh này là hoạt động bình thường, liên tục và hợp pháp của các cơ quan tiến hành tố tụng; bao gồm điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự cùng với trật tự, kỷ luật của hệ thống tư pháp Nhà nước.
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi thuộc mặt khách quan của Tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt tù là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc sử dụng thủ đoạn khác nhằm giải thoát trái phép người đang bị bắt, bị giam giữ, áp giải hoặc xét xử; qua đó xâm phạm trực tiếp đến hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng và trật tự an ninh trong thi hành án.
Hành vi “đánh tháo” có thể được thể hiện dưới một trong các dạng sau:
Thứ nhất, dùng vũ lực để đánh tháo. Đây là hành vi sử dụng sức mạnh vật chất nhằm tấn công người canh gác, áp giải hoặc những người đang làm nhiệm vụ thi hành pháp luật, khiến họ mất khả năng kháng cự hoặc bị vô hiệu hóa, tạo điều kiện cho người bị giam, giữ hoặc đang bị xét xử thoát ra ngoài. Hành vi dùng vũ lực có thể được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau như: đâm, chém, đấm, đá, bắn, tạt axit, sử dụng chất nổ, hơi cay, thuốc độc… hoặc các thủ đoạn nguy hiểm khác có khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ. Tùy mức độ, hành vi dùng vũ lực có thể chỉ khiến người canh giữ, dẫn giải mất khả năng phản kháng tạm thời, hoặc gây hậu quả nghiêm trọng cho họ. Tuy nhiên, chỉ cần có hành vi tấn công nhằm mục đích giải thoát người bị giam giữ thì tội phạm đã được coi là hoàn thành, không phụ thuộc vào hậu quả xảy ra.
Thứ hai, đe dọa dùng vũ lực để đánh tháo. Trường hợp này, người phạm tội không trực tiếp sử dụng vũ lực nhưng bằng lời nói, hành động, cử chỉ hoặc thủ đoạn khác đã khiến người canh giữ hoặc người áp giải lo sợ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nhiệm vụ được giao, qua đó tạo điều kiện cho người bị giam giữ hoặc đang bị dẫn giải trốn thoát. Sự đe dọa ở đây có thể là đe dọa tấn công ngay lập tức, hoặc đe dọa đến tính mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người thân của họ. Nếu vì sợ hãi mà người canh giữ buông lỏng trách nhiệm, để người bị giam giữ trốn thoát, thì trong một số trường hợp người này cũng có thể bị xem xét trách nhiệm hình sự về tội tha trái pháp luật người bị giam giữ theo quy định riêng của Bộ luật Hình sự 2015.
Thứ ba, dùng thủ đoạn khác để đánh tháo. Đây là hành vi không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực nhưng sử dụng mưu mẹo, gian dối hoặc hành động lén lút để khiến người thi hành công vụ mất cảnh giác, nhầm lẫn hoặc không kiểm soát được, qua đó giải thoát được người đang bị bắt, tạm giữ hoặc tạm giam. Ví dụ:
- Giả danh người có thẩm quyền để yêu cầu giao người bị giam giữ;
- Cắt khóa, phá cửa trại giam;
- Tạo hiện trường giả;
- Hoặc tráo đổi người khi áp giải.
Những thủ đoạn này tuy không mang tính bạo lực nhưng ẩn chứa mức độ tinh vi, xảo quyệt cao; có thể gây rối loạn trật tự, làm mất an toàn và tính nghiêm minh của cơ quan thi hành án.
Cần lưu ý rằng, các hành vi đánh tháo mang tính tổ chức hoặc có sử dụng vũ khí, vật liệu nổ để phá hoại cơ sở giam giữ sẽ không thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 387 mà phải xử lý theo Điều 119 Bộ luật Hình sự 2015 về Tội chống phá cơ sở giam giữ.
Về hậu quả, đây không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của Tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt tù. Chỉ cần người phạm tội thực hiện hành vi khách quan hướng tới mục đích giải thoát người bị bắt, bị giam, bị tạm giữ hoặc đang bị xét xử, thì tội phạm đã được coi là hoàn thành, dù việc giải thoát đó có thành công hay không.
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của Tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt tù là chủ thể đặc biệt. Chỉ những người đang bị giam, đang bị giữ, đang bị dẫn giải hoặc đang bị xét xử mới có thể trở thành chủ thể của tội phạm này.
Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.
2.4. Mặt chủ quan:
Tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt tù được thực hiện với lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Tức là người phạm tội nhận thức rõ hậu quả người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt tù được đánh tháo khỏi cơ sở giam giữ, xét xử, mong muốn cho hậu quả đó xảy ra hoặc dù không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc hậu quả xảy ra.
3. Khung hình phạt của Tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt tù:
Tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt tù theo Điều 387 Bộ luật Hình sự 2015 gồm những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Các tình tiết định khung tăng nặng theo Điều 387 Bộ luật Hình sự 2015:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt tù được quy định tại khoản 2 Điều 387 Bộ luật Hình sự 2015 với khung hình phạt là phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
- Có tổ chức: Phạm tội có tổ chức là trường hợp nhiều người cố ý cùng nhau thực hiện hành vi đánh tháo, có sự cấu kết chặt chẽ, chuẩn bị trước về phương tiện, kế hoạch hoặc phân công vai trò cụ thể. Mỗi người trong nhóm đều nhận thức rõ mục đích chung là giải thoát cho người đang bị bắt, tạm giữ, tạm giam hoặc chấp hành án phạt tù. Hành vi phạm tội có tổ chức làm tăng đáng kể tính nguy hiểm cho xã hội bởi nó không chỉ cản trở hoạt động tư pháp mà còn đe dọa trực tiếp đến an ninh trật tự tại cơ sở giam giữ hoặc nơi xét xử. Do có tính chủ mưu, cấu kết, nên người phạm tội trong trường hợp này bị xử lý ở khung hình phạt nghiêm khắc hơn, thể hiện quan điểm kiên quyết của pháp luật trong việc bảo vệ hoạt động tư pháp và kỷ luật thi hành án.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn: Tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn được áp dụng đối với người có trách nhiệm trong công tác thi hành án, giam giữ hoặc áp giải, như cán bộ quản giáo, công an, chiến sĩ làm nhiệm vụ hoặc người có thẩm quyền ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam. Khi người này lợi dụng vị trí công tác, quyền lực được giao để giúp người bị giam giữ trốn thoát hoặc cản trở việc áp giải, xét xử, hành vi đó không chỉ xâm phạm trật tự tư pháp mà còn làm mất uy tín và niềm tin của xã hội vào cơ quan thực thi pháp luật. Đây là một trong những tình tiết tăng nặng quan trọng vì người phạm tội vừa vi phạm pháp luật hình sự, vừa phản bội nghĩa vụ công vụ, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng đến hiệu lực quản lý Nhà nước.
- Dùng vũ lực đối với người canh gác hoặc người áp giải: Đây là tình tiết thể hiện mức độ nguy hiểm cao nhất của hành vi vi phạm vì người phạm tội đã trực tiếp sử dụng bạo lực để tấn công người thi hành công vụ, gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe và an toàn của lực lượng thực thi pháp luật. Hành vi dùng vũ lực có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức như đánh, đâm, bắn, khống chế, đe dọa bằng hung khí hoặc vũ khí… nhằm mục đích giải thoát người bị bắt hoặc bị giam giữ. Hành vi này không chỉ gây rối loạn trật tự tại nơi giam giữ hoặc xét xử mà còn đe dọa đến sự nghiêm minh và tính cưỡng chế của pháp luật hình sự. Vì vậy, đây là tình tiết tăng nặng đặc biệt làm cho người phạm tội phải chịu khung hình phạt cao hơn do tính chất côn đồ và chống đối trực tiếp đối với Nhà nước.
- Đánh tháo người bị kết án về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc người bị kết án tử hình: Đây là tình tiết thể hiện mức độ đặc biệt nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Việc đánh tháo người bị kết án về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc bị kết án tử hình đồng nghĩa với việc giúp những người có hành vi đặc biệt nguy hiểm cho xã hội thoát khỏi sự trừng phạt của pháp luật. Hành vi này có thể gây nguy cơ trực tiếp đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, thậm chí có thể dẫn đến việc tiếp tục phạm tội, chống phá Nhà nước hoặc gây ra hậu quả chính trị, xã hội nghiêm trọng. Vì vậy, người phạm tội trong trường hợp này phải chịu khung hình phạt cao nhất (cụ thể là từ 5 đến 12 năm tù), thể hiện sự nghiêm khắc của pháp luật và thái độ kiên quyết của Nhà nước trong việc bảo vệ an ninh, chủ quyền cũng như tính công bằng và trật tự trong hoạt động tư pháp.
5. Phân biệt với Tội chống phá cơ sở giam giữ:
Tiêu chí | Tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt tù (Điều 387 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội chống phá cơ sở giam giữ (Điều 119 Bộ luật Hình sự 2015) |
Vị trí pháp lý | Quy định tại Chương XXIII – Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. | Quy định tại Chương XIII – Các tội xâm phạm an ninh quốc gia. |
Mục đích phạm tội | Nhằm giải thoát trái phép cho người đang bị bắt, tạm giữ, tạm giam, áp giải, xét xử hoặc đang chấp hành án phạt tù, gây cản trở hoạt động tư pháp. | Nhằm chống chính quyền nhân dân, phá hoại cơ sở giam giữ, tổ chức cho phạm nhân trốn hoặc đánh tháo người bị giam giữ để phục vụ mục đích chính trị, phản loạn. |
Khách thể bị xâm phạm | Hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. | An ninh quốc gia, sự ổn định chính trị và an toàn của cơ sở giam giữ của Nhà nước. |
Đối tượng tác động | Người đang bị bắt, tạm giữ, tạm giam, áp giải, xét xử hoặc đang chấp hành án phạt tù. | Cơ sở giam giữ, cơ sở hạ tầng, lực lượng bảo vệ và người bị giam giữ trong các trại giam, nhà tạm giữ của Nhà nước. |
Hành vi khách quan | Thực hiện hành vi đánh tháo, tức là giải thoát trái phép người bị bắt, bị tạm giữ hoặc đang bị áp giải bằng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác. | Thực hiện một trong các hành vi: phá cơ sở giam giữ, tổ chức trốn khỏi cơ sở giam giữ, đánh tháo người bị giam giữ hoặc người bị áp giải, hoặc tự trốn khỏi cơ sở giam giữ với mục đích chống chính quyền nhân dân. |
Dấu hiệu bắt buộc về lỗi | Người phạm tội nhận thức rõ hành vi trái pháp luật của mình nhưng vẫn cố ý thực hiện để giải thoát người bị giam giữ. | Người phạm tội có mục đích chính trị rõ ràng nhằm chống phá Nhà nước, làm suy yếu chính quyền nhân dân. |
Chủ thể của tội phạm | Bất kỳ cá nhân nào có năng lực trách nhiệm hình sự, có thể là người thân, đồng phạm, người ngoài xã hội hoặc người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan thi hành án. | Bất kỳ cá nhân nào có năng lực trách nhiệm hình sự, thường là đối tượng phản động, phần tử chống đối hoặc tù nhân chính trị có hành vi tổ chức, kích động hoặc trực tiếp thực hiện hành vi phá cơ sở giam giữ. |
Hình phạt | Khung 1: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 2: Phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. | Khung 1: Phạt tù từ 10 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Không quy định. |
Chuẩn bị phạm tội | Không quy định. | Người chuẩn bị phạm tội này thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. |
Tính chất phạm tội | Là tội xâm phạm hoạt động tư pháp, có thể mang tính đơn lẻ và không gắn với mục đích chính trị. | Là tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, mang mục đích chính trị phản cách mạng và đe dọa nền tảng Nhà nước. |
THAM KHẢO THÊM: