Ma túy là hiểm họa lớn đối với sức khỏe con người và trật tự xã hội. Thực tế cho thấy, không chỉ có hành vi mua bán, tàng trữ, tổ chức sử dụng ma túy mà còn xuất hiện tình trạng dùng bạo lực, đe dọa hoặc thủ đoạn khác để ép buộc người khác sử dụng trái phép chất ma túy. Bộ luật Hình sự 2015 hiện nay đã quy định Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy tại Điều 257.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát về Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy:
- 2 2. Cấu thành Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy:
- 4 4. Các tình tiết định khung tăng nặng theo Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015:
- 5 5. Phân biệt với Tội lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy:
- 6 6. Những khó khăn trong quá trình điều tra và xử lý Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy:
1. Khái quát về Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy:
1.1. Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy là gì?
Cùng với bối cảnh ma túy lan rộng như hiện nay thì tình trạng ép buộc người khác sử dụng trái phép chất ma túy ngày càng diễn biến phức tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi hơn. Các đối tượng phạm tội thường dùng vũ lực, đe dọa hoặc sử dụng các thủ đoạn khác để cưỡng ép nạn nhân sử dụng ma túy (đặc biệt là thanh thiếu niên, phụ nữ và người đang trong quá trình cai nghiện).
Thực tế cho thấy, nhiều vụ việc đã để lại hậu quả nghiêm trọng: nạn nhân bị tổn hại sức khỏe, tái nghiện hoặc tử vong; thậm chí còn lây nhiễm bệnh nguy hiểm như HIV/AIDS… Đây là vấn đề nhức nhối, gây bất an trong xã hội, ảnh hưởng đến trật tự an toàn công cộng và làm gia tăng gánh nặng trong công tác phòng chống ma túy của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Có thể đưa ra khái niệm về Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy như sau:
“Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy là hành vi của người dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần nhằm buộc người khác sử dụng ma túy trái với ý muốn của họ. Đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe, quyền tự do cá nhân của con người, đồng thời gián tiếp làm gia tăng tình trạng nghiện và tệ nạn ma túy trong cộng đồng.”
1.2. Ý nghĩa của Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy trong pháp luật hình sự:
Quy định Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy trong Bộ luật Hình sự 2015 mang nhiều ý nghĩa như sau:
- Thứ nhất, bảo vệ quyền con người: Đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do cá nhân và quyền được bảo vệ sức khỏe.
- Thứ hai, phòng ngừa tái nghiện và lây lan ma túy: Ngăn chặn hành vi ép buộc làm gia tăng số người nghiện cũng như nhằm mục đích bảo vệ những người đang cai nghiện hoặc nhóm dễ tổn thương (phụ nữ có thai, trẻ em…).
- Thứ ba, tăng cường tính răn đe và trừng trị nghiêm minh: Đưa ra chế tài hình sự nghiêm khắc; xử lý hành vi cưỡng bức vốn có tính chất bạo lực, tàn bạo và vô nhân đạo.
- Thứ tư, góp phần giữ vững trật tự và an toàn xã hội: Tạo môi trường sống an toàn và lành mạnh, thúc đẩy hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy của lực lượng chức năng.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy:
Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy hiện nay đang được quy định tại Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người khác để buộc họ phải sử dụng trái phép chất ma túy trái với ý muốn của họ, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Vì động cơ đê hèn hoặc vì tư lợi;
d) Đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi;
đ) Đối với phụ nữ mà biết là có thai;
e) Đối với 02 người trở lên;
g) Đối với người đang cai nghiện;
h) Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
i) Gây bệnh nguy hiểm cho người khác;
k) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:
a) Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên hoặc gây chết người;
b) Gây bệnh nguy hiểm cho 02 người trở lên;
c) Đối với người dưới 13 tuổi.
4. Phạm tội trong trường hợp làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.”
2. Cấu thành Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy:
2.1. Khách thể:
Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy xâm phạm trực tiếp đến: Chế độ quản lý của Nhà nước về việc sử dụng chất ma tuý vào các mục đích chữa bệnh. Đồng thời, tội danh này còn xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ của con người và an ninh trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, chủ yếu vẫn là Chế độ quản lý về việc sử dụng chất ma tuý.
Đối tượng tác động của Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy là người sử dụng ma tuý. Nếu không có người sử dụng chất ma tuý thì không thể có người phạm tội tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma tuý.
Khoản 5 Điều 5 Luật Phòng chống ma túy 2021 quy định về các hành vi bị cấm, trong đó có hành vi: Sử dụng, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy; chứa chấp, hỗ trợ việc sử dụng trái phép chất ma túy.
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi thuộc mặt khách quan của Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy là: Hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người khác để buộc họ phải sử dụng trái phép chất ma túy trái với ý muốn của họ.
Cụ thể, được thể hiện qua 03 hành vi sau:
- Thứ nhất, hành vi dùng vũ lực: Đánh đập, trói, khống chế… ép buộc nạn nhân sử dụng ma túy.
- Thứ hai, hành vi đe dọa dùng vũ lực: Đưa ra lời đe dọa khiến nạn nhân sợ hãi mà buộc phải sử dụng ma túy.
- Thứ ba, hành vi khác mang tính cưỡng ép: Gây sức ép tâm lý, đe dọa tinh thần hoặc lợi dụng sự lệ thuộc để ép buộc nạn nhân.
Hậu quả của hành vi cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma tuý là những thiệt hại cho xã hội, trong đó trực tiếp gây ra những thiệt hại về trật tự an toàn xã hội, tính mạng, sức khoẻ của chính người sử dụng trái phép chất ma tuý. Tuy nhiên, hậu quả của tội phạm này không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy.
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy là người từ đủ 16 tuổi trở lên có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015.
Pháp nhân thương mại không phải là chủ thể của tội danh này.
2.4. Mặt chủ quan:
Người phạm Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy thực hiện hành vi phạm tội của mình do lỗi cố ý trực tiếp.
Tức là nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của hành vi cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy nhưng vẫn thực hiện.
Mục đích của người phạm tội là dấu hiệu bắt buộc của Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy. Tức là người phạm tội mong muốn đưa được chất ma tuý vào cơ thể người khác với nhiều động cơ khác nhau nhưng chủ yếu là vì vụ lợi.
3. Khung hình phạt của Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy:
Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy theo Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 15 năm đến 20 năm.
- Khung 4: Phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
4. Các tình tiết định khung tăng nặng theo Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy được quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
4.1. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015:
- Có tổ chức theo điểm a khoản 2 Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015:
Hành vi phạm tội được thực hiện có tổ chức, có sự cấu kết chặt chẽ và phân công vai trò giữa nhiều người với nhau; khi đó tính chất nguy hiểm cho xã hội được nâng lên cao hơn. Điều này thể hiện sự chuẩn bị kỹ lưỡng, tính chuyên nghiệp, khó phát hiện và dễ tái phạm. Do đó, pháp luật quy định khung hình phạt nghiêm khắc hơn trong trường hợp này để xử lý nghiêm minh hành vi phạm tội.
- Phạm tội 02 lần trở lên theo điểm b khoản 2 Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015:
Trường hợp người phạm tội tái diễn hành vi từ 02 lần trở lên chứng tỏ sự cố ý và thái độ coi thường pháp luật của người thực hiện hành vi vi phạm, đồng thời tiềm ẩn nguy cơ gây hại cho nhiều nạn nhân khác. Đây là biểu hiện của hành vi nguy hiểm có tính hệ thống, vì vậy cần bị xử lý ở khung hình phạt nặng hơn của Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy.
- Vì động cơ đê hèn hoặc vì tư lợi theo điểm c khoản 2 Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015:
Người phạm tội vì tư lợi (như kiếm lời từ việc ép buộc người khác dùng ma túy…) hoặc vì động cơ đê hèn (như trả thù cá nhân, thỏa mãn thú tính…) thể hiện mức độ nguy hiểm về đạo đức và xã hội. Đây là hành vi bị lên án mạnh mẽ, vì vậy đây được xác định là một trong những tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy.
- Đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi theo điểm d khoản 2 Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015:
Việc cưỡng bức người chưa thành niên sử dụng ma túy là hành vi đặc biệt nghiêm trọng bởi đối tượng này chưa phát triển toàn diện về thể chất và tâm lý, dễ bị tổn hại lâu dài. Vì vậy, pháp luật quy định khung hình phạt cao hơn trong trường hợp này nhằm bảo vệ những chủ thể chưa thành niên.
- Đối với phụ nữ mà biết là có thai theo điểm đ khoản 2 Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015:
Cưỡng bức phụ nữ có thai dùng ma túy không chỉ gây hại cho người mẹ mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến thai nhi. Đây là hành vi xâm hại kép, gây hậu quả đặc biệt nguy hiểm. Vì vậy đây cũng bị coi là tình tiết tăng nặng khung hình phạt của Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy theo khoản 2 Điều 275 Bộ luật Hình sự 2015.
- Đối với 02 người trở lên theo điểm e khoản 2 Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015:
Nếu hành vi phạm tội tác động đến nhiều người cùng lúc thì hậu quả và mức độ nguy hiểm sẽ tăng lên so với các trường hợp phạm tội thông thường khác. Điều này cho thấy phạm tội có phạm vi rộng với sự ảnh hưởng xã hội lớn, vì vậy cần phải xử lý ở mức độ nghiêm khắc hơn để đảm bảo tính răn đe phòng ngừa chung.
- Đối với người đang cai nghiện theo điểm g khoản 2 Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015:
Người đang cai nghiện rất dễ bị tái nghiện nếu bị ép buộc dùng ma túy. Hành vi này phá hỏng quá trình điều trị, gây thiệt hại cả về sức khỏe và ý chí cho nạn nhân. Vì vậy, pháp luật coi đây là tình tiết tăng nặng khung hình phạt của Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy để bảo vệ quyền lợi người đang thực hiện thủ tục cai nghiện – đối tượng dễ bị dụ dỗ và cưỡng bức.
- Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% theo điểm h khoản 2 Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015:
Nếu hậu quả dẫn đến thương tích hoặc tổn hại sức khỏe ở mức trung bình (tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%) thì tính chất nguy hiểm của hành vi được nâng lên rõ rệt. Pháp luật quy định tình tiết này là một trong những tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 275 Bộ luật Hình sự 2015 để đảm bảo sự công bằng dựa trên hậu quả thực tế mà hành vi đã gây ra.
- Gây bệnh nguy hiểm cho người khác theo điểm I khoản 2 Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015:
Hành vi cưỡng bức làm nạn nhân mắc bệnh nguy hiểm (ví dụ: HIV/AIDS, viêm gan…) có hậu quả nặng nề, ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe, khả năng lao động và thậm chí tính mạng của con người. Đây là tình tiết đặc biệt nghiêm trọng nên cần bị xử lý ở khung hình phạt cao hơn của Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy.
- Tái phạm nguy hiểm theo điểm k khoản 2 Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015:
Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
+ Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
+ Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
4.2. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 3 Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015:
- Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên hoặc gây chết người theo điểm a khoản 3 Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015:
Khi hậu quả ở mức rất nghiêm trọng (cụ thể là làm nạn nhân bị thương tật nặng hoặc tử vong) thì tính chất nguy hiểm của hành vi đạt mức cao nhất. Đây là sự xâm phạm trực tiếp đến quyền sống và quyền được bảo vệ sức khỏe của công dân, nên người phạm tội phải chịu hình phạt nghiêm khắc hơn theo khoản 3 Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015.
- Gây bệnh nguy hiểm cho 02 người trở lên theo điểm b khoản 3 Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015:
Nếu hành vi dẫn đến việc nhiều người cùng mắc bệnh nguy hiểm thì hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, không chỉ với cá nhân mà còn đe dọa sức khỏe cộng đồng. Do đó, pháp luật quy định khung hình phạt từ 15 đến 20 năm tù theo khoản 3 Điều 257 là phù hợp để đảm bảo tính răn đe.
- Đối với người dưới 13 tuổi theo điểm c khoản 3 Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015:
Ép buộc trẻ em dưới 13 tuổi sử dụng ma túy là hành vi cực kỳ nguy hiểm và xâm hại trực tiếp đến nhóm đối tượng cần được bảo vệ đặc biệt. Hậu quả đối với sự phát triển thể chất và tinh thần của trẻ là không thể khắc phục. Vì vậy, đây là tình tiết tăng nặng đặc biệt của Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy với khung hình phạt rất nghiêm khắc.
4.3. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 4 Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015:
Khoản 4 Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: Phạm tội trong trường hợp làm chết 02 người trở lên thì bị phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân.
Hành vi cưỡng bức sử dụng ma túy dẫn đến “02 người trở lên” thì được coi là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nhất trong quá trình định khung hình phạt của Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy. Tính chất tàn bạo và mức độ nguy hiểm xã hội của hành vi này ở mức cực kỳ cao, nên pháp luật quy định hình phạt đặc biệt nghiêm khắc (cụ thể là 20 năm tù hoặc tù chung thân).
5. Phân biệt với Tội lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy:
Tiêu chí | Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 258 Bộ luật Hình sự 2015) |
Khách thể bị xâm phạm | Trật tự quản lý về phòng chống ma túy; quyền tự do, sức khỏe và tính mạng của người bị cưỡng bức. | Trật tự quản lý về phòng chống ma túy; quyền tự do và sức khỏe của người bị lôi kéo. |
Hành vi khách quan | Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, hoặc thủ đoạn khác để uy hiếp tinh thần, ép buộc trái ý muốn của người khác sử dụng ma túy. Đây là những hành vi mang tính cưỡng ép và áp đặt. | Rủ rê, dụ dỗ, xúi giục hoặc thủ đoạn khác nhằm tác động tâm lý để người khác tự nguyện sử dụng ma túy. Đây là những hành vi mang tính tác động, lôi kéo hoặc khuyến khích. |
Tính chất, mức độ nguy hiểm | Nguy hiểm cao hơn so với hành vi lôi kéo theo Điều 258 Bộ luật Hình sự 2015 vì tước bỏ quyền tự do ý chí, buộc nạn nhân phải sử dụng ma túy. | Nguy hiểm thấp hơn so với cưỡng bức tại Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015 vì người bị lôi kéo có thể tự nguyện hoặc bị dụ dỗ theo. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 2: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Khung 3: Phạt tù từ 15 năm đến 20 năm. Khung 4: Phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân. | Khung 1: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Khung 3: Phạt tù từ 10 năm đến 15 năm. Khung 4: Phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng. | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng. |
6. Những khó khăn trong quá trình điều tra và xử lý Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy:
6.1. Khó khăn trong việc phát hiện và thu thập chứng cứ:
- Hành vi thường diễn ra bí mật: Các đối tượng cưỡng bức thường lợi dụng địa điểm vắng vẻ, kín đáo (như: nhà trọ, quán karaoke, vũ trường hoặc địa điểm hẻo lánh) và tránh sự chứng kiến của người ngoài. Do đó, việc cơ quan chức năng thu thập chứng cứ trực tiếp như video, hình ảnh hoặc nhân chứng… là rất khó khăn.
- Nạn nhân e ngại tố giác: Phần lớn nạn nhân sợ bị kỳ thị vì liên quan đến ma túy, lo sợ bị trả thù hoặc chịu áp lực tâm lý, dẫn đến không hợp tác hoặc khai báo mâu thuẫn/né tránh. Điều này khiến cơ quan điều tra khó xác minh tình tiết “cưỡng bức” trong quá trình buộc tội.
- Khó chứng minh ý chí của nạn nhân: Việc phân biệt giữa trường hợp nạn nhân tự nguyện và bị ép buộc sử dụng ma túy là cực kỳ khó. Trong khi đó, dấu hiệu cưỡng bức thường là lời khai chủ quan và ít bằng chứng vật chất đi kèm.
6.2. Khó khăn trong giám định và xác định hậu quả:
- Giám định ma túy trong cơ thể: Việc phát hiện ma túy phải kịp thời (thông qua xét nghiệm máu, nước tiểu…), nếu chậm trễ thì chất ma túy đã bị đào thải khiến kết quả âm tính dù thực tế có sử dụng.
- Giám định thương tích: Khi có tổn hại sức khỏe (ví dụ: tổn thương từ 31% đến 60% hoặc trên 61%), quy trình giám định pháp y phức tạp và thường mất nhiều thời gian để tiến hành; vì thế dễ gây tranh cãi về kết quả.
- Chứng minh mối quan hệ nhân quả: Nếu nạn nhân bị lây bệnh nguy hiểm (như HIV/AIDS…) thì việc xác định chính xác bệnh do hành vi cưỡng bức gây ra hay từ nguyên nhân khác (dùng chung kim tiêm trước đó, quan hệ tình dục không an toàn…) là rất phức tạp.
- Trường hợp tử vong: Khi nạn nhân chết, chứng minh nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của nhạn nhân là do hành vi ép buộc sử dụng ma túy hay do bệnh lý khác đòi hỏi giám định chuyên môn cao; vì thế dễ phát sinh sự bất đồng quan điểm giữa các Luật sư và cơ quan tiến hành tố tụng.
6.3. Khó khăn về đối tượng phạm tội:
- Tội phạm có tổ chức: Nhiều trường hợp phạm tội có sự tham gia của băng nhóm ma túy, có sự điều hành và phân công công việc giữa nhiều người, có tổ chức và tinh vi khiến cơ quan điều tra khó phân hóa trách nhiệm cá nhân.
- Tính chất liều lĩnh và manh động: Đối tượng phạm tội thường mang theo hung khí và sử dụng vũ lực/đe dọa sử dụng vũ lực để che giấu hành vi, thậm chí chống trả quyết liệt lực lượng chức năng khi bị phát hiện.
- Có sự lồng ghép nhiều tội phạm: Trong nhiều vụ, hành vi cưỡng bức gắn với các tội khác như Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, Mua bán trái phép chất ma túy, Cố ý gây thương tích hoặc giết người. Điều này gây nhiều khó khăn trong quá trình định tội danh của cơ quan chức năng.
6.4. Khó khăn về pháp lý và thủ tục tố tụng:
- Bảo vệ nhân chứng và người tố giác: Người tố giác, nhân chứng dễ bị trả thù hoặc đe dọa. Cơ chế bảo vệ hiện nay còn hạn chế, dẫn đến nhiều người e ngại, thay đổi lời khai hoặc từ chối hợp tác.
- Thời gian điều tra kéo dài: Việc trưng cầu giám định thương tích và xét nghiệm ma túy thường mất nhiều thời gian khiến quá trình tố tụng bị chậm trễ, ảnh hưởng đến hiệu quả xử lý.
- Khó phân biệt giữa tội danh liền kề: Khó phân biệt ranh giới giữa Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 257 Bộ luật Hình sự 2015) và Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 255 Bộ luật Hình sự 2015) vì cùng có hành vi ép buộc người khác dùng ma túy trong một tổ chức, dẫn đến vướng mắc trong quá trình định tội.
6.5. Khó khăn từ nhận thức xã hội và nguồn lực quản lý:
- Thiếu nhận thức của cộng đồng: Người dân chưa ý thức đầy đủ rằng việc ép buộc người khác dùng ma túy là một tội phạm hình sự nghiêm trọng nên nhiều trường hợp không được tố giác kịp thời.
- Nguồn lực hạn chế: Công tác trinh sát, điều tra và giám định y khoa đòi hỏi nhân lực, thiết bị và kinh phí lớn. Trong khi đó lực lượng chuyên trách về phòng chống ma túy thường quá tải và phải xử lý nhiều vụ việc phức tạp khác nhau.
- Áp lực xã hội và dư luận: Do ma túy là vấn đề nhạy cảm nên khi xử lý vụ án thường chịu nhiều áp lực dư luận, thậm chí sự can thiệp từ nhiều phía khiến quá trình điều tra – truy tố – xét xử gặp nhiều trở ngại.
THAM KHẢO THÊM: