Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối là hành vi của người tham gia tố tụng như người làm chứng, giám định viên... cố ý đưa ra thông tin không đúng sự thật, làm sai lệch quá trình giải quyết vụ án. Đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan tiến hành tố tụng và có thể gây hậu quả nghiêm trọng như kết án oan hoặc bỏ lọt tội phạm.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát về Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối:
- 2 2. Cấu thành Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối:
- 4 4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 382 Bộ luật Hình sự:
- 5 5. Phân biệt với Tội từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định, định giá tài sản hoặc từ chối cung cấp tài liệu:
- 6 6. Bản án điển hình của Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối:
1. Khái quát về Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối:
1.1. Khái niệm:
Trong xã hội pháp quyền thì việc bảo đảm tính đúng đắn, công bằng và khách quan trong quá trình giải quyết các vụ án là yêu cầu cốt lõi để xây dựng niềm tin của người dân vào hệ thống tư pháp. Thế nhưng trong thực tiễn tố tụng, không ít trường hợp người tham gia tố tụng như người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, phiên dịch viên, người bào chữa… lại cố ý khai báo gian dối, cung cấp thông tin sai sự thật hoặc tài liệu không đúng thực tế. Những hành vi này không chỉ gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử mà còn có thể làm sai lệch kết quả giải quyết vụ án, gây hậu quả nghiêm trọng như kết án oan hoặc bỏ lọt tội phạm.
”Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối là hành vi của những người tham gia tố tụng, cố ý đưa ra thông tin không đúng sự thật, khai báo gian dối, hoặc cung cấp tài liệu biết rõ là sai nhằm làm sai lệch quá trình giải quyết vụ án, vụ việc. Hành vi này đã được Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định tại Điều 382 nhằm xử lý nghiêm minh những trường hợp làm ảnh hưởng đến hoạt động tư pháp.”
1.2. Ý nghĩa:
- Thứ nhất, bảo đảm tính trung thực và khách quan trong hoạt động tố tụng. Tố tụng hình sự và dân sự đòi hỏi sự trung thực tuyệt đối từ những người tham gia, đặc biệt là người làm chứng, giám định viên, người định giá, người dịch thuật, người bào chữa… Khi những người này khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật, quá trình điều tra, truy tố, xét xử sẽ bị sai lệch và dẫn đến việc xác định không đúng bản chất sự việc. Do đó, việc quy định tội danh này góp phần bảo đảm cho quá trình tố tụng diễn ra trên cơ sở chứng cứ thật và lời khai trung thực, từ đó giúp làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.
- Thứ hai, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức có liên quan. Khi hoạt động tố tụng bị ảnh hưởng bởi thông tin gian dối, hậu quả có thể rất nghiêm trọng: người vô tội bị kết án oan trong khi người phạm tội lại thoát khỏi sự trừng phạt của pháp luật. Điều này không chỉ gây tổn hại nghiêm trọng đến quyền con người mà còn làm mất niềm tin vào công lý. Bởi vậy, việc xử lý nghiêm hành vi cung cấp thông tin sai sự thật chính là một cách để bảo vệ công lý và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong vụ án.
- Thứ ba, góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả của hệ thống tư pháp. Quy định xử lý hành vi khai gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật tạo ra cơ sở pháp lý để các cơ quan tiến hành tố tụng chủ động ngăn chặn và xử lý những hành vi làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án. Điều này giúp quá trình điều tra, xét xử diễn ra minh bạch, hiệu quả; đồng thời thúc đẩy sự chuyên nghiệp và nghiêm minh trong hoạt động của các cơ quan tư pháp.
- Thứ tư, có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội. Việc quy định tội danh và xử lý hình sự đối với hành vi gian dối trong tố tụng không chỉ nhằm trừng phạt cá nhân vi phạm mà còn mang tính cảnh báo đối với toàn xã hội. Nó giúp nâng cao ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ pháp lý của những người tham gia tố tụng, từ đó phòng ngừa hành vi vi phạm tương tự xảy ra trong tương lai.
1.3. Cơ sở pháp lý:
Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối hiện nay đang được quy định cụ thể tại Điều 382 Bộ luật Hình sự 2015:
”1. Người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật, người bào chữa nào mà kết luận, dịch, khai gian dối hoặc cung cấp những tài liệu mà mình biết rõ là sai sự thật, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Dẫn đến việc giải quyết vụ án, vụ việc bị sai lệch.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Dẫn đến việc kết án oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm hoặc người phạm tội.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối:
2.1. Khách thể:
Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối xâm phạm trực tiếp đến: Hoạt động đúng đắn của cơ quan tiến hành tố tụng.
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi khách quan của Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối có thể là một trong các dạng hành vi sau, tùy thuộc vào địa vị pháp lý của chủ thể:
- Đối với người giám định: Có hành vi kết luận gian dối, được hiểu là hành vi ra một kết luận về vấn đề cần giám định không đúng với tính khách quan của nội dung giám định. Tính sai sự thật này có thể sai một phần hoặc sai toàn bộ nội dung giám định. Với kết luận giám định sai cơ quan tư pháp không có đủ điều kiện cần thiết để có thể giải quyết đúng đắn vụ án. Hành vi đưa ra kết luận giám định sai có thể là hành vi của một cá nhân hoặc của tập thể nhiều giám định viên.
- Đối với người phiên dịch: Có hành vi gian dối, được hiểu là hành vi dịch sai lệch về nội dung lời nói hoặc nội dung chữ viết trong tài liệu (như dịch không đúng với sự thật mà bản mô tả, dịch không đúng với ngôn ngữ của bản dịch gốc từ nước ngoài, tiếng dân tộc khác sang tiếng Việt (hoặc ngược lại). Hành vi dịch sai là hành vi chuyển sai nội dung thông tin từ ngôn ngữ khác sang tiếng Việt hoặc ngược lại (phiên dịch cho người câm, điếc cũng được xem là dạng phiên dịch).
- Đối với người làm chứng: Có hành vi khai báo gian dối, được hiểu là hành vi đưa ra những tài liệu cho cơ quan tổ tụng mà biết rõ tài liệu đó sai sự thật ( như đưa ra hợp đồng vay nợ của cá nhân nhưng biết rõ không phải là bản thật, đưa ra tài liệu để làm cơ sở giám định do người khác cung cấp nhưng biết rõ tài liệu đó là giả…). Lời khai sai, tài liệu sai sự thật là lời khai, tài liệu không phản ánh đúng thực tế khách quan của vụ án. Hành vi khai hoặc cung cấp tài liệu của người làm chứng có thể do họ tự nguyện hoặc theo yêu cầu của cơ quan tư pháp. Hành vi này có thể của người làm chứng, người giám định, người phiên dịch.
Hậu quả không phải dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối.
2.3. Mặt chủ quan:
Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối được thực hiện với lỗi cố ý. Đối với tội cung cấp tài liệu sai sự thật thì việc biết rõ tài liệu đó là sai sự thật là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội danh này.
2.4. Chủ thể:
Chủ thể của tội phạm này là những người tham gia tố tụng sau: Người giám định, người phiên dịch, người làm chứng (trong các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính). Ngoài ra, chủ thể của tội danh này còn phải có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ và đáp ứng điều kiện về độ tuổi theo Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015.
3. Khung hình phạt của Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối:
Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối theo Điều 382 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 382 Bộ luật Hình sự:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 382 Bộ luật Hình sự 2015 với mức hình phạt cao nhất là 07 năm tù:
- Có tổ chức (điểm a khoản 2): Tình tiết này là yếu tố định khung tăng nặng thể hiện tính chất nguy hiểm cao hơn của hành vi phạm tội. Trường hợp này được hiểu là có sự câu kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm, có sự phân công vai trò, hành động theo kế hoạch rõ ràng nhằm thực hiện hành vi khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật. Việc phạm tội có tổ chức cho thấy mức độ chuẩn bị kỹ lưỡng, có chủ đích từ trước và khả năng gây hậu quả nghiêm trọng hơn, do đó hình phạt áp dụng trong trường hợp này sẽ nghiêm khắc hơn (từ 01 đến 03 năm tù).
- Dẫn đến việc giải quyết vụ án, vụ việc bị sai lệch (điểm b khoản 2): Hành vi khai gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật nếu làm sai lệch quá trình giải quyết vụ án hoặc vụ việc sẽ bị xử lý nghiêm hơn vì đã trực tiếp ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của hoạt động tố tụng. Tình tiết này thể hiện hậu quả cụ thể từ hành vi phạm tội, có thể làm thay đổi bản chất vụ án, dẫn đến việc giải quyết sai, gây thiệt hại cho các bên liên quan và ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy, trường hợp này bị áp dụng hình phạt nặng hơn so với khung cơ bản (từ 01 đến 03 năm tù).
- Phạm tội 02 lần trở lên (điểm a khoản 3): Việc phạm tội hai lần trở lên thể hiện sự tái phạm có hệ thống, cho thấy người phạm tội có thái độ coi thường pháp luật và không ăn năn hối cải sau khi thực hiện hành vi sai trái lần đầu. Tình tiết này phản ánh mức độ nguy hiểm gia tăng của người phạm tội đối với xã hội. Vì vậy, hành vi này bị xếp vào khung hình phạt nghiêm khắc hơn với mức phạt tù từ 03 đến 07 năm để răn đe và phòng ngừa chung.
- Dẫn đến việc kết án oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm hoặc người phạm tội (điểm b khoản 3): Đây là tình tiết định khung tăng nặng đặc biệt nghiêm trọng vì hậu quả trực tiếp của hành vi khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật đã làm sai lệch bản chất vụ án ở mức độ nghiêm trọng. Việc kết án oan người vô tội là vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc công lý, trong khi bỏ lọt tội phạm hoặc người phạm tội đe dọa an toàn xã hội và gây mất niềm tin vào hệ thống tư pháp. Do tính chất và hậu quả nặng nề nên người phạm tội trong trường hợp này sẽ bị xử lý theo khung hình phạt cao nhất của Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối (từ 03 đến 07 năm tù).
5. Phân biệt với Tội từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định, định giá tài sản hoặc từ chối cung cấp tài liệu:
Tiêu chí | Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối (Điều 382 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định, định giá tài sản hoặc từ chối cung cấp tài liệu (Điều 383 Bộ luật Hình sự 2015) |
---|---|---|
Chủ thể | Người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật, người bào chữa. | Người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người dịch thuật. |
Hành vi phạm tội | Bao gồm các hành vi: Kết luận, dịch, khai gian dối; hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật mà biết rõ là sai. | Bao gồm các hành vi: Từ chối khai báo; trốn tránh việc kết luận giám định, định giá tài sản; hoặc từ chối cung cấp tài liệu không có lý do chính đáng. |
Tính chất hành vi | Chủ động khai gian dối, làm sai lệch bản chất sự việc, có thể gây hậu quả nghiêm trọng. | Không thực hiện nghĩa vụ được yêu cầu, mang tính tiêu cực, cản trở hoạt động tố tụng. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. Khung 2: Phạt tù từ 01 năm đến 03 năm. Khung 3: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. | Phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
6. Bản án điển hình của Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối:
- Tên bản án:
Bản án về tội khai báo gian dối số 85/2023/HS-ST ngày 28/11/2023 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên.
- Nội dung vụ án:
Khoảng 17 giờ ngày 11/4/2023, Cao Thị Thu U (SN 1999; HKTT: TDP Lê Hồng Phong, TT Đu, huyện P) và chị Trương Ánh T, cùng là nhân viên của Công ty TNHH S BVT – chi nhánh Thái Nguyên (trụ sở tại TDP Dương Tự Minh, TT Đu, huyện P) xảy ra xích mích. Cho rằng mình bị chị T xúc phạm danh dự bản thân, Uyên đã gọi điện thoại và kể với chồng là Nguyễn Huy H. Lúc này, H đang ngồi uống bia cùng Nguyễn Minh Q và Nguyễn Văn Đ tại khu vực gần cổng trường THPT Phú Lương, nghe được tin trên, đã điều khiển xe mô tô BKS 20E1- xxxxx về nhà tại TDP Lê Hồng Phong, thị trấn Đu lấy 01 bao tải dứa, bên trong có 03 đoạn gậy bằng kim loại dài khoảng 90 cm và 01 con dao bằng kim loại dài khoảng 52cm, vỏ bao bằng gỗ, rồi di chuyển đến công ty S tìm gặp chị T. Đ thấy H nghe điện thoại xong không quay lại thì gọi hỏi và được H kể chuyện vợ bị xúc phạm.
Thấy vậy, Đ điều khiển xe mô tô BKS 20H7- xxxx cùng Q đến hỗ trợ. Đến nơi, H, Q và Đ mỗi người lấy 01 đoạn gậy bằng kim loại từ bao tải dứa ra lao vào cổng Công ty S chửi bới, gây ồn ào, huyên náo tại khu vực. Lúc này, Lô Văn L – bạn của H đi bộ ngang qua thấy vậy liền vào hỏi, tưởng H bị đánh nên cũng lấy 01 con dao bằng kim loại trong bao tải dứa rồi cùng H, Q và Đ lao vào chửi bới, gây ồn ào, hỗn loạn tại cổng Công ty S, gây trở ngại đến hoạt động của những người dân đang sinh sống, buôn bán bên đường, của công nhân đang tan ca và sự hoạt động bình thường của Công ty.
Sau khi bị bảo vệ Công ty can ngăn và đẩy ra ngoài, Đ và Q cầm dao và gậy kim loại ra về. Thời điểm này, H thấy chị T đi vào phòng bảo vệ nên đã gọi ra ngoài nói chuyện, n H không được, H và L liền đi vào phòng bảo vệ, dùng tay, chân và dép lê đang đi ở chân đánh vào mặt và đầu chị T. Mọi người lao vào can ngăn, H và L bỏ về, chị T và Công ty S làm đơn trình báo Cơ quan CSĐT giải quyết theo quy định. (BL 92-102; 103-157; 163-187; 194-208; 227-242; 253- 267) Sau đó vài ngày, do bản thân là người có tiền án, không muốn liên quan đến pháp luật, L kể lại toàn bộ hành vi phạm tội của mình cho bạn là Nguyễn Văn T và nhờ T đến Cơ quan điều tra làm việc, nhận tội thay cho L, hứa sẽ nộp tiền phạt nếu T bị xử phạt hành chính. Suy nghĩ sự việc đơn giản và nể nang bạn bè, T đồng ý. Sau đó, L thống nhất với H, Q và Đ về sự việc trên.
Quá trình làm việc ban đầu tại Cơ quan điều tra, T tự gian dối khai nhận bản thân là người đã cầm dao gây rối tại Công ty S, tuy nhiên, sau khi nhận thức được tính chất nghiêm trọng của vụ án, T làm đơn xin đầu thú và thành khẩn khai báo sự thật khách quan của sự việc. (BL272-290) Quá trình điều tra, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên, lời khai của bị cáo phù hợp với: Biên bản làm việc, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thực nghiệm điều tra, sơ đồ khám nghiệm hiện trường; lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.
Tại bản cáo trạng số 78/CT-VKSPL ngày 19/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Nguyễn Huy H, Lô Văn L, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Minh Q về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo điểm b khoản 2 Điều 318 của BLHS. Nguyễn Văn T về tội ”Khai báo gian dối” theo khoản 1 Điều 382 của Bộ luật hình sự 2015.
- Quyết định của Tòa án:
+ Nguyễn Văn T phạm tội ”Khai báo gian dối”;
+ Nguyễn Huy H, Lô Văn L, Nguyễn Minh Q và Nguyễn Văn Đ phạm tội ”Gây rối trật tự công cộng”.
THAM KHẢO THÊM: