Trong hoạt động thực tiễn, việc người có tài sản biết rõ nguồn gốc phạm tội của tài sản đó nhưng vẫn cố ý chứa chấp hoặc tiêu thụ đang là vấn đề pháp lý nghiêm trọng, ảnh hưởng đến trật tự xã hội và công bằng pháp luật. Vì vậy, Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định rõ về Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có tại Điều 323 nhằm xử lý nghiêm minh hành vi này.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát về Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có:
- 2 2. Cấu thành Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có:
- 4 4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 323 Bộ luật Hình sự:
- 5 5. Phân biệt với Tội cản trở việc thi hành án:
- 6 6. Bản án điển hình của Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có:
1. Khái quát về Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có:
1.1. Khái niệm:
Trong xã hội hiện nay, tình trạng tiêu thụ tài sản phạm pháp vẫn diễn ra phổ biến tại nhiều nơi. Thực tế cho thấy, rất nhiều tài sản phạm pháp đã được tiêu thụ thành công, tạo điều kiện thuận lợi cho tội phạm tiếp tục hoạt động. Những điểm tiêu thụ này thường được ngụy trang dưới vỏ bọc các cơ sở kinh doanh hợp pháp như cửa hàng cầm đồ, sửa chữa, mua bán xe máy, điện thoại cũ… nhằm che giấu hành vi vi phạm pháp luật.
Có thể đưa ra khái niệm về Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có như sau:
”Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là hành vi của người không có thỏa thuận hay hứa hẹn trước nhưng biết rõ tài sản mà mình nhận giữ, chứa chấp hoặc tiêu thụ có nguồn gốc phạm tội (như trộm cắp, cướp giật, chiếm đoạt…) của người khác. Hành vi này bao gồm việc cất giữ, bảo quản, che giấu tài sản phạm pháp hoặc thực hiện các giao dịch chuyển quyền sở hữu tài sản như mua bán, trao đổi, cho thuê, thế chấp… nhằm lưu thông tài sản do phạm tội mà có.”
1.2. Ý nghĩa:
- Thứ nhất: Quy định về Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nhằm xử lý nghiêm minh những hành vi lợi dụng tài sản phạm pháp của người khác để thu lợi bất chính hoặc hỗ trợ việc tồn tại và lưu thông tài sản phạm tội, góp phần làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật và khuyến khích các hành vi phạm tội.
- Thứ hai: Việc xử lý Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có góp phần ngăn chặn tình trạng tài sản phạm pháp được che giấu, lưu thông công khai hoặc sử dụng sai mục đích, bảo vệ quyền sở hữu tài sản của cá nhân, tổ chức và Nhà nước; từ đó góp phần ổn định trật tự xã hội, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật trong cộng đồng.
- Thứ ba: Việc quy định về Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có giúp cảnh báo, răn đe các cá nhân có hành vi tiếp tay, hỗ trợ cho tội phạm trong việc tẩu tán tài sản phạm pháp, góp phần ngăn chặn sự phát triển và lan rộng của các loại tội phạm liên quan đến tài sản.
1.3. Cơ sở pháp lý:
Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có hiện nay đang được quy định tại Điều 323 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
”1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng;
d) Thu lợi bất chính từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;
đ) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 10 năm:
a) Tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
b) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:
a) Tài sản, vật phạm pháp trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;
b) Thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
2. Cấu thành Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có:
2.1. Khách thể:
Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội.
Ngoài ra tội danh này còn gián tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác.
2.2. Mặt khách quan:
Mặt khách quan của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có bao gồm 02 hành vi sau:
- Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có: Là hành vi không có sự hứa hẹn trước nhưng vẫn cố ý chứa giữ tài sản mà người thực hiện biết rõ được lấy từ các hành vi phạm tội của người khác (như cướp, trộm cắp…). Hành vi chứa chấp này bao gồm các hình thức như: cất giữ, che giấu, bảo quản tài sản; đồng thời có thể là việc cho thuê, cho mượn, hoặc cung cấp địa điểm nhằm mục đích cất giữ, che giấu và bảo quản tài sản phạm pháp đó.
- Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có: Là hành vi không thỏa thuận trước nhưng vẫn thực hiện việc mua bán hoặc các giao dịch khác đối với tài sản mà người thực hiện biết rõ nguồn gốc phạm tội của nó. Các hành vi tiêu thụ tài sản này bao gồm: mua, bán, thuê, cho thuê, trao đổi, cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký gửi, cho tặng tài sản hoặc hỗ trợ thực hiện những hành vi trên nhằm làm lưu thông tài sản phạm pháp đó.
Trong đó, Điều 1 Thông tư liên tịch 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC đã nêu rõ:
- Tài sản do người khác phạm tội mà có: Là tài sản do người phạm tội có được trực tiếp từ việc thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: tài sản chiếm đoạt được, tham ô, nhận hối lộ…) hoặc do người phạm tội có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ việc họ thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: xe máy có được từ việc dùng tiền tham ô để mua).
- Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có: Là có căn cứ chứng minh biết được tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội hoặc có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội.
- Tài sản bao gồm: Vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản; bất động sản, động sản, hoa lợi, lợi tức, vật chính, vật phụ, vật chia được, vật không chia được, vật tiêu hao, vật không tiêu hao, vật cùng loại, vật đặc định, vật đồng bộ và quyền tài sản.
Kế thừa Thông tư liên tịch 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC, khoản 4 Điều 2 Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP quy định: ”Biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có” là một trong các trường hợp sau đây:
- Người phạm tội trực tiếp biết được tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: người phạm tội được người thực hiện hành vi phạm tội nguồn cho biết là tiền, tài sản do họ phạm tội mà có);
- Qua các phương tiện thông tin đại chúng, người phạm tội biết được người khác thực hiện hành vi phạm tội nguồn (ví dụ: hành vi phạm tội của người thực hiện tội phạm nguồn đã được báo, đài phát thanh, truyền hình đưa tin);
- Bằng nhận thức thông thường, người phạm tội có thể biết được tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: biết chồng là nhân viên của cơ quan nhà nước có mức lương là 08 triệu đồng/tháng và không có nguồn thu nhập khác nhưng A vẫn nhận của chồng số tiền 10 tỷ đồng để góp vốn vào doanh nghiệp mà không hỏi rõ về nguồn tiền);
- Theo quy định của pháp luật, người phạm tội buộc phải biết nguồn gốc tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: A mua xe ô tô của B không có giấy tờ với giá bằng một phần mười trị giá của chiếc xe đó).
Cần lưu ý các điều kiện quan trọng kèm theo các hành vi trên:
- Người phạm tội không có thỏa thuận hoặc hứa hẹn trước với người giao tài sản về việc sẽ chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản đó. Họ chỉ biết rõ nguồn gốc phạm tội của tài sản khi đã nhận giữ hoặc thực hiện hành vi tiêu thụ;
- Căn cứ để xác định tội phạm là tài sản phải do người khác phạm tội mà có, không dựa vào giá trị tài sản mà họ chứa chấp hoặc tiêu thụ. Nếu tài sản có được không phải từ hành vi phạm tội mà do vi phạm pháp luật khác; hoặc nếu hành vi của người giữ, người tiêu thụ thiếu một trong các yếu tố cấu thành như biết rõ tài sản phạm pháp, không có thỏa thuận trước… thì không được coi là hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và đáp ứng được độ tuổi luật định.
2.4. Mặt chủ quan:
Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được thực hiện với lỗi cố ý.
3. Khung hình phạt của Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có:
Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo Điều 323 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 10 năm.
- Khung 4: Phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 323 Bộ luật Hình sự:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 323 Bộ luật Hình sự 2015. Cụ thể như sau:
- Có tổ chức: Hành vi phạm tội có tổ chức là tình tiết định khung tăng nặng được quy định tại khoản 2 Điều 323 Bộ luật Hình sự 2015. Đây là trường hợp người phạm tội cấu kết chặt chẽ với nhau, có sự phân công vai trò và nhiệm vụ cụ thể giữa các đồng phạm, thực hiện hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản phạm pháp một cách có hệ thống. Tính chất “có tổ chức” làm tăng mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm bởi nó thể hiện sự chuẩn bị, tính toán và quyết tâm phạm tội cao hơn nhiều so với hành vi phạm tội đơn lẻ khác. Do đó pháp luật quy định khung hình phạt cao hơn để đảm bảo tính răn đe.
- Có tính chất chuyên nghiệp: Tình tiết này được áp dụng khi người phạm tội thực hiện hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có một cách thường xuyên, liên tục và coi đó là nghề để kiếm sống. Đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội vì không còn là sự vi phạm nhất thời mà đã trở thành lối sống, hoạt động phạm pháp có tính lặp đi lặp lại, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội và kinh tế. Vì vậy, pháp luật quy định tình tiết này làm căn cứ tăng nặng trách nhiệm hình sự, chuyển khung hình phạt lên mức nghiêm khắc hơn.
- Tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 100.000.000 đồng trở lên: Giá trị tài sản là căn cứ định lượng rõ ràng để xác định mức độ nguy hiểm của hành vi. Khi tài sản hoặc vật phạm pháp được chứa chấp hoặc tiêu thụ có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên thì hành vi đó được coi là gây hậu quả nghiêm trọng cho quyền sở hữu tài sản và trật tự xã hội. Bộ luật Hình sự chia làm 03 mức độ tăng nặng theo giá trị: Từ 100 triệu đến dưới 300 triệu đồng (khoản 2), từ 300 triệu đến dưới 1 tỷ đồng (khoản 3) và từ 1 tỷ đồng trở lên (khoản 4); tương ứng với các khung hình phạt từ 3 năm đến 15 năm tù. Sự phân hóa này giúp việc xử lý tội phạm được công bằng, hợp lý và nghiêm minh hơn.
- Thu lợi bất chính từ 20.000.000 đồng trở lên: Bên cạnh giá trị tài sản tiêu thụ, yếu tố thu lợi bất chính từ hành vi phạm tội cũng là tình tiết định khung tăng nặng quan trọng. Người phạm tội trực tiếp thu được lợi ích vật chất từ việc chứa chấp, tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có, thể hiện động cơ trục lợi rõ ràng và thái độ coi thường pháp luật. Tùy theo số tiền thu lợi bất chính (từ 20 triệu đến dưới 100 triệu, từ 100 triệu đến dưới 300 triệu và từ 300 triệu trở lên) thì hành vi sẽ bị xử lý theo các khung hình phạt tăng dần (từ khoản 2 đến khoản 4 Điều 323). Điều này phản ánh nguyên tắc người có lợi ích vật chất lớn hơn từ tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn.
- Tái phạm nguy hiểm: Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm gồm: Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
5. Phân biệt với Tội cản trở việc thi hành án:
Tiêu chí | Tội cản trở việc thi hành án (Điều 381 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (Điều 232 Bộ luật Hình sự 2015) |
---|---|---|
Bản chất hành vi | Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý ngăn cản, cản trở việc thi hành án đúng pháp luật. | Hành vi không hứa hẹn trước nhưng chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản biết rõ do người khác phạm tội mà có. |
Đối tượng tác động | Việc thi hành án (hành chính, hình sự hoặc dân sự). | Tài sản có nguồn gốc phạm tội (như trộm cắp, cướp giật, chiếm đoạt…). |
Chủ thể phạm tội | Người có chức vụ hoặc quyền hạn trong thi hành án. | Bất kỳ người nào và không phân biệt chức vụ, quyền hạn. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: P tù từ 02 năm đến 05 năm. | Khung 1: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 10 năm. Khung 4: Phạt tù từ 10 năm đến 15 năm. |
Biện pháp bổ sung | Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. |
6. Bản án điển hình của Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có:
- Tên bản án:
Bản án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 180/2024/HS-PT ngày 26/04/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai.
- Nội dung vụ án:
Vào ngày 03/02/2023, 08/02/2023, 14/02/2023, Hồ Tấn C đã có hành vi lấy trộm dầu Diesel (D.O) của Công ty TNHH MTV V rồi đem đi bán cho Nguyễn Phi H với giá 500.000 đồng/1 can. Sau khi nhận dầu, H đã chuyển khoản cho C 03 lần, mỗi lần 1.000.000 đồng từ tài khoản ngân hàng số 22222xxxxx của ngân hàng V1 mang tên “NGUYEN PHI H” chuyển tiền đến số tài khoản 48132054xxxxx của ngân hàng A mang tên “HO TAN C”. Theo bản kết luận định giá số 39/KL-HDDG ngày 05/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thì tổng cộng tài sản Nguyễn Phi H mua của Hồ Tấn C trị giá 3.996.000 đồng.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo H là người đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ việc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, khi thấy Hồ Tấn C bán dầu với giá rẻ hơn giá thị trường, mặc dù biết tài sản do Hồ Tấn C trộm cắp mà có nhưng bị cáo H vẫn mua để sử dụng cho xe của mình. Hành vi của bị cáo H đã gián tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ, tiếp tay cho bị cáo C trong việc trộm cắp tài sản. Toà án nhân dân huyện Xuân Lộc xử phạt bị cáo Nguyễn Phi H về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và xử phạt bị cáo mức án 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
- Quyết định của Tòa án:
+ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phi H phạm tội ”Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Phi H 01 (một ) năm 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 (ba) năm tính từ ngày tuyên án.
THAM KHẢO THÊM: