Không phải mọi trường hợp xóa án tích đều được thực hiện tự động, đương nhiên. Trình tự và thủ tục xóa án tích theo quyết định của Tòa án được pháp luật quy định rõ ràng về trình tự, thời hạn và thẩm quyền giải quyết nhằm bảo đảm quyền lợi cho người đã cải tạo tiến bộ; đồng thời thể hiện tính nhân đạo và khuyến khích hoàn lương của chính sách hình sự Việt Nam.
Mục lục bài viết
1. Đối tượng xóa án tích theo quyết định của Tòa án:
Xóa án tích theo quyết định của Tòa án là một cơ chế đặc biệt được quy định trong Bộ luật Hình sự 2015 thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng và khuyến khích cải tạo tốt của pháp luật hình sự Việt Nam. Cơ chế này không chỉ mang ý nghĩa pháp lý mà còn có giá trị xã hội sâu sắc đối với người từng phạm tội. Việc xóa án tích theo quyết định của Tòa án được quy định tại Điều 71 Bộ luật hình sự 2015 như sau:
(1) Xóa án tích theo quyết định của Tòa án chỉ đặt ra đối với những người đã bị kết án về một trong các tội được quy định tại Chương XIII (nhóm tội danh xâm phạm an ninh Quốc gia) và Chương XXVI (nhóm tội danh phá hoại hòa bình và chống loài người và tội phạm chiến tranh) của Bộ luật Hình sự năm 2015. Đây là những tội phạm đặc biệt nguy hiểm, cần thiết phải có các quy định chặt chẽ về việc xóa án tích.
(2) Tòa án quyết định việc xóa án tích đối với người bị kết án căn cứ vào tính chất của tội phạm đã thực hiện, thái độ chấp hành pháp luật, thái độ lao động của người bị kết án và các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 71 Bộ luật Hình sự 2015.
(3) Người bị kết án được Tòa án quyết định việc xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
- 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo;
- 03 năm trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;
- 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;
- 07 năm trong trường hợp bị phạt tù trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.
Lưu ý:
- Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại điểm a, điểm b khoản 2 Điều 71 Bộ luật hình sự 2015 thì Tòa án quyết định việc xóa án tích từ khi người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.
- Người bị Tòa án bác đơn xin xóa án tích lần đầu, thì sau 01 năm kể từ ngày bị Tòa án bác đơn mới được xin xóa án tích; nếu bị bác đơn lần thứ hai trở đi, thì sau 02 năm kể từ ngày bị Tòa án bác đơn mới được xin xóa án tích.
Nhận xét:
- So với Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có sự sửa đổi quan trọng và hợp lý hơn về thời điểm bắt đầu tính thời hạn để được xóa án tích. Theo quy định hiện hành, thời hạn này được tính từ ngày người bị kết án chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách của án treo thay vì “từ ngày chấp hành xong bản án” như trước đây.
- Sự thay đổi này giúp phân định rõ ràng giữa hình phạt chính và các nghĩa vụ bổ sung, phản ánh đúng bản chất của việc cải tạo, phục hồi quyền công dân. Đối với trường hợp người bị kết án còn phải chấp hành hình phạt bổ sung như quản chế, cấm cư trú, tước một số quyền công dân, nếu thời hạn chấp hành hình phạt bổ sung dài hơn 01 năm (đối với người bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo) hoặc dài hơn 03 năm (đối với người bị phạt tù đến 05 năm) thì Tòa án sẽ chỉ quyết định việc xóa án tích kể từ thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.
- Quy định này bảo đảm tính công bằng, toàn diện và chặt chẽ trong việc xem xét xóa án tích, vừa thể hiện sự khoan hồng vừa duy trì trách nhiệm pháp lý của người phạm tội cho đến khi họ hoàn toàn thực hiện xong mọi nghĩa vụ theo bản án.
2. Quy định về thủ tục xóa án tích theo quyết định của Tòa án:
Quy định về thủ tục xóa án tích theo quyết định của Tòa án được thực hiện như sau:
Bước 1: Nộp hồ sơ Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 369 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, người bị kết án nộp hồ sơ lên Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án các giấy tờ sau đây:
- Đơn đề nghị xóa án tích;
- Giấy chứng nhận không phạm tội mới của cơ quan công an cấp xã/phường/thị trấn nơi người bị kết án thường trú;
- Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù của trại giam nơi thụ hình án cấp;
- Giấy xác nhận của cơ quan thi hành án dân sự về việc thi hành xong các khoản bồi thường, án phí, tiền phạt;
- Bản sao chứng minh nhân dân/ căn cước công dân.
Bước 2: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn xin xóa án tích của người bị kết án, Tòa án đã xét xử sơ thẩm có trách nhiệm chuyển toàn bộ hồ sơ, tài liệu liên quan đến Viện kiểm sát cùng cấp để xem xét và cho ý kiến.
Sau đó, trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được tài liệu do Tòa án chuyển đến, Viện kiểm sát cùng cấp phải có ý kiến bằng văn bản về việc có hay không đủ điều kiện xóa án tích, sau đó lại tiếp tục chuyển lại hồ sơ cho Tòa án.
Khi nhận được hồ sơ và ý kiến của Viện kiểm sát, nếu xét thấy người bị kết án đã đủ điều kiện được xóa án tích, thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm phải ra quyết định xóa án tích. Ngược lại nếu chưa đủ điều kiện, Tòa án sẽ ra quyết định bác đơn xin xóa án tích và nêu rõ lý do.
Bước 3: Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định xóa án tích hoặc quyết định bác đơn, Tòa án đã ra quyết định phải gửi quyết định đó cho:
- Người bị kết án (người nộp đơn);
- Viện kiểm sát cùng cấp;
- Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú;
- Hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc hoặc học tập.
Việc gửi quyết định này nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch và giúp các cơ quan, tổ chức có liên quan cập nhật tình trạng pháp lý của người được xóa án tích vào hồ sơ quản lý.
3. Cách tính thời hạn xóa án tích theo quyết định của Tòa án:
Theo quy định tại Điều 73 Bộ luật hình sự năm 2015 thì thời hạn để xóa án tích được tính như sau:
“Thời hạn để xóa án tích quy định tại Điều 70 và Điều 71 của Bộ luật này căn cứ vào hình phạt chính đã tuyên.”
Quy định này nhằm tránh việc hiểu không đúng về một số loại hình phạt vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung như: Phạt tiền, trục xuất. Khi áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 73 Bộ luật hình sự 2015 cần chú ý là thời hạn để xoá án tích được căn cứ vào hình phạt chính đã tuyên; mà không căn cứ vào hình phạt bổ sung.
Hơn nữa, Bộ luật hình sự năm 2015 không quy định xóa án tích cho người bị phạt trục xuất vì người bị phạt trục xuất là người nước ngoài phạm tội ở Việt Nam, khi đã thi hành hình phạt trục xuất cũng là lúc họ rời khỏi lãnh thổ Việt Nam nên việc xóa án đối với họ không còn ý nghĩa nữa. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử xảy ra nhưng về lý thuyết, người bị phạt trục xuất, sau đó họ có thể trở lại Việt Nam và tiếp tục phạm tội thì việc tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm đối với họ như thế nào? Đây là vấn đề cần được nghiên cứu hướng dẫn hoặc bổ sung.
Người bị kết án chưa được xóa án tích mà thực hiện hành vi phạm tội mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì thời hạn để xóa án tích cũ được tính lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo của bản án mới hoặc từ ngày bản án mới hết thời hiệu thi hành. Người được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại cũng được coi như đã chấp hành xong hình phạt.
THAM KHẢO THÊM:

Tư vấn pháp luật qua Zalo


