Khi Tòa án cho người phạm tội hưởng án treo hoặc áp dụng biện pháp giáo dục thay thế hình phạt tù, họ sẽ phải chịu một thời gian thử thách nhất định để rèn luyện, cải tạo dưới sự giám sát của chính quyền địa phương hoặc cơ quan được giao trách nhiệm. Vậy thời gian thử thách là gì và buộc phải chịu thử thách được hiểu ra sao theo quy định của pháp luật hiện hành?
Mục lục bài viết
1. Thời gian thử thách là gì?
1.1. Khái niệm thời gian thử thách:
Thời gian thử thách là yếu tố gắn liền và không thể tách rời với chế định án treo. Đây được xem là một biện pháp mang tính giáo dục sâu sắc, thể hiện chính sách khoan hồng và nhân đạo của Nhà nước đối với những người phạm tội nhưng có khả năng tự cải tạo và không cần thiết phải cách ly khỏi xã hội.
Khoảng thời gian này được thiết lập nhằm tạo cơ hội cho người bị kết án thể hiện sự tự giác, ý thức trách nhiệm và quyết tâm sửa chữa lỗi lầm của bản thân. Đồng thời, đây cũng là giai đoạn để Tòa án kiểm nghiệm tính đúng đắn của quyết định cho hưởng án treo, qua đó đánh giá khả năng cải tạo, tái hòa nhập và sự tiến bộ thực tế của người được hưởng án trong quá trình chấp hành bản án.
Tóm lại:
“Thời gian thử thách là thời gian cần thiết để cho người được hưởng án treo chứng tỏ sự tự cải tạo của mình trong điều kiện không bị cách ly khỏi đời sống xã hội và được Tòa án quy định. Người phạm tội phải chấp hành nghĩa vụ học tập, lao động dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức và chính quyền cơ sở được tòa án giao trách nhiệm.”
1.2. Cách tính thời gian thử thách trong án treo:
Về thời gian thử thách trong án treo được quy định tại khoản 1 Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
- Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của luật thi hành án hình sự.
- Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.
- Tòa án có thể quyết định áp dụng đối với người được hưởng án treo hình phạt bổ sung nếu trong điều luật áp dụng có quy định hình phạt này. Người được hưởng án treo đã chấp hành được 1/2 thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.
- Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.
Như vậy: Khi quyết định cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo thì Toà án đồng thời buộc phải tuyên thời gian thử thách đối với người phạm tội và chế định án treo chỉ có ý nghĩa khi tuyên thời gian thử thách đúng theo luật định.
1.3. Quyền và nghĩa vụ của người chấp hành án trong thời gian thử thách:
Căn cứ Điều 87 Luật Thi hành án hình sự 2019 quy định về nghĩa vụ của người hưởng án treo như sau:
Thứ nhất: Có mặt theo giấy triệu tập và cam kết việc chấp hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 85 của Luật Thi hành án hình sự 2019.
Thứ hai: Thực hiện nghiêm chỉnh cam kết trong việc tuân thủ pháp luật, nghĩa vụ công dân, nội quy, quy chế của nơi cư trú, nơi làm việc, học tập; chấp hành đầy đủ hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp vì lý do khách quan được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận.
Thứ ba: Chịu sự giám sát, giáo dục của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu nơi cư trú, nơi làm việc.
Thứ tư: Chấp hành quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự 2019.
Thứ năm: Phải có mặt theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu.
Thứ sáu: Hằng tháng phải báo cáo bằng văn bản với Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục về tình hình chấp hành nghĩa vụ của mình. Trường hợp vắng mặt theo quy định tại khoản 1 Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự 2019 thì khi hết thời hạn vắng mặt, người được hưởng án treo phải báo cáo về tình hình chấp hành nghĩa vụ của mình.
1.4. Các hành vi bị cấm trong thời gian thử thách:
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo phải tuyệt đối tránh các hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là:
- Tái phạm hoặc phạm tội mới (đây là căn cứ để Tòa án buộc chấp hành hình phạt tù đã cho hưởng án treo);
- Vi phạm nghĩa vụ báo cáo, vắng mặt không lý do, hoặc rời khỏi nơi cư trú mà không được phép;
- Có thái độ chống đối, trốn tránh giám sát, hoặc không thực hiện cam kết rèn luyện.
Theo khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, nếu trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể buộc họ chấp hành hình phạt tù đã tuyên.
Như vậy: Việc tuân thủ nghiêm túc các quy định trong thời gian thử thách không chỉ thể hiện thiện chí cải tạo mà còn là điều kiện tiên quyết để người phạm tội được coi là hoàn thành hình phạt tù treo sau khi hết thời hạn thử thách.
2. Buộc phải chịu thử thách là gì?
2.1. Khái niệm buộc phải chịu thử thách:
Buộc phải chịu thử thách là một biện pháp mang tính giáo dục và cải tạo, được Tòa án áp dụng nhằm buộc người phạm tội chấp hành nghĩa vụ học tập, lao động, rèn luyện dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương được giao trách nhiệm quản lý. Đây là một trong những chế định thể hiện rõ chính sách nhân đạo và hướng thiện của pháp luật hình sự Việt Nam.
Biện pháp buộc phải chịu thử thách được áp dụng trong hai trường hợp chủ yếu:
- Thứ nhất: Đối với người chưa thành niên phạm tội, đây là biện pháp tư pháp thay thế cho hình phạt nhằm giúp họ có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, phát triển đúng hướng mà không cần cách ly khỏi xã hội.
- Thứ hai: Đối với người bị kết án tù có thời hạn nhưng được cho hưởng án treo, việc buộc phải chịu thử thách là điều kiện bắt buộc trong thời gian hưởng án treo để người đó chứng minh sự cải tạo, tuân thủ pháp luật và ý thức trách nhiệm của mình.
Biện pháp này đã được ghi nhận lần đầu trong Bộ luật Hình sự năm 1985, đặt nền móng cho chính sách hình sự mang tính khoan hồng, hướng tới phục hồi hơn là trừng phạt. Đến Bộ luật Hình sự năm 1999, chế định “buộc phải chịu thử thách” đối với người chưa thành niên phạm tội được đổi tên thành “biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn”. Việc đổi tên này giúp làm rõ hơn nội dung, tính chất và mục đích nhân văn của biện pháp, nhấn mạnh yếu tố giáo dục, giúp đỡ người phạm tội hòa nhập cộng đồng thay vì chỉ giám sát, kiểm soát hành vi.
“Buộc phải chịu thử thách” là thuật ngữ dùng để chỉ nghĩa vụ bắt buộc của người được hưởng án treo. Theo đó họ phải chấp hành một thời gian thử thách nhất định do Tòa án ấn định. Trong thời gian này, người đó không bị giam giữ nhưng phải chịu sự giám sát, giáo dục và kiểm tra của chính quyền địa phương hoặc cơ quan, tổ chức nơi làm việc.
Theo khoản 1 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, khi xử phạt tù không quá 03 năm, xét thấy người phạm tội có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, Tòa án có thể cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm. Như vậy, việc “buộc phải chịu thử thách” không phải là tùy chọn mà là điều kiện bắt buộc gắn liền với hình phạt án treo. Nếu không có thời gian thử thách thì án treo không còn ý nghĩa pháp lý.
2.2. Khi nào người bị kết án phải chịu thử thách?
Không phải mọi trường hợp bị kết án tù đều được hưởng án treo hoặc bị buộc chịu thử thách. Theo Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP, chỉ khi đáp ứng đồng thời 05 điều kiện sau đây thì người bị kết án tù mới được Tòa án cho hưởng án treo và phải chịu thời gian thử thách, bao gồm:
- Bị xử phạt tù không quá 03 năm;
- Có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự hoặc chỉ phạm tội lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng;
- Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trở lên, trong đó ít nhất 01 tình tiết quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 và không có tình tiết tăng nặng;
- Tòa án xét thấy không cần thiết phải cách ly khỏi xã hội;
- Có khả năng tự cải tạo, không còn nguy hiểm cho xã hội, việc cho hưởng án treo không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Nếu đáp ứng đủ điều kiện trên thì Tòa án sẽ tuyên cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách, buộc người đó phải chịu thử thách để thể hiện sự cải tạo và rèn luyện bản thân.
2.3. Mục đích của việc buộc chịu thử thách trong án treo:
Việc buộc người được hưởng án treo phải chịu thử thách không chỉ là một biện pháp kiểm soát hành vi mà còn mang ý nghĩa giáo dục, phòng ngừa và nhân đạo sâu sắc. Cụ thể:
- Giáo dục người phạm tội tự rèn luyện, tuân thủ pháp luật, giúp họ nhận thức rõ sai lầm và tự khắc phục hậu quả mà không cần cách ly khỏi xã hội;
- Tạo cơ hội tái hòa nhập cộng đồng, duy trì các mối quan hệ xã hội, gia đình, công việc giúp người phạm tội sớm trở thành người có ích;
- Thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước, đặt niềm tin vào khả năng cải tạo của con người và hướng tới mục tiêu cải tạo hơn là trừng phạt;
- Đây cũng là biện pháp răn đe, cảnh báo để người bị kết án nhận thức rằng việc tái phạm hoặc vi phạm nghĩa vụ sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý nghiêm trọng – buộc phải chấp hành hình phạt tù.
3. Cố ý vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách thì có phải chịu hình phạt tù không?
Căn cứ Điều 10 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP (sửa đổi bởi khoản 5 Điều 1 Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP) quy định như sau:
- Người được hưởng án treo có thể bị Tòa án buộc chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo nếu đang trong thời gian thử thách mà cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại điều 87 của Luật Thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên.
- Vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên đối với trường hợp người được hưởng án treo bỏ đi khỏi nơi cư trú không xin phép được xác định như sau:
+ Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo bỏ đi khỏi nơi cư trú không xin phép, cơ quan có thẩm quyền căn cứ Điều 87, Điều 91 và Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự lập biên bản vi phạm nghĩa vụ, nhắc nhở lần 01 và triệu tập người này để tiếp tục thi hành án nhưng họ vẫn không có mặt theo giấy triệu tập nên cơ quan có thẩm quyền tổ chức kiểm điểm vắng mặt và lập biên bản kiểm điểm vắng mặt. Trường hợp này được xác định là vi phạm nghĩa vụ lần 01.
+ Căn cứ Điều 93 của Luật Thi hành án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiếp tục triệu tập người được hưởng án treo nhưng người này vẫn không có mặt nên bị lập biên bản nhắc nhở lần 02. Cơ quan có thẩm quyền tiếp tục triệu tập người được hưởng án treo nếu người này vẫn không có mặt thì lập biên bản xác nhận sự vắng mặt. Trường hợp này được coi là vi phạm nghĩa vụ lần 02.
Như vậy: Cá nhân được cho hưởng án treo trong thời gian thử thách mà có hành vi cố ý vi phạm nghĩa vụ thì có thể bị Tòa án buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
THAM KHẢO THÊM:

Tư vấn pháp luật qua Zalo


