Một trong những thắc mắc thường gặp của người đang chấp hành án treo là liệu họ có được phép đi làm hay không. Bởi án treo tuy không phải là hình phạt tù giam nhưng người được hưởng án vẫn phải tuân thủ nhiều quy định và chịu sự giám sát của chính quyền địa phương hoặc cơ quan được giao quản lý. Vậy: Đang hưởng án treo cá nhân có được phép đi làm hay không?
Mục lục bài viết
1. Người đang được hưởng án treo có được phép đi làm không?
Trước hết, theo khoản 2 Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.
Việc vắng mặt ở nơi cư trú của người đang hưởng án treo được quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự 2019. Cụ thể như sau:
- Người được hưởng án treo có thể vắng mặt tại nơi cư trú nếu có lý do chính đáng và phải xin phép theo quy định tại khoản 2 Điều này, phải thực hiện khai báo tạm vắng theo quy định của pháp luật về cư trú. Thời gian vắng mặt tại nơi cư trú mỗi lần không quá 60 ngày và tổng số thời gian vắng mặt tại nơi cư trú không được vượt quá một phần ba thời gian thử thách, trừ trường hợp bị bệnh phải điều trị tại cơ sở y tế theo chỉ định của bác sỹ và phải có xác nhận điều trị của cơ sở y tế đó.
- Người được hưởng án treo khi vắng mặt tại nơi cư trú phải có đơn xin phép và được sự đồng ý của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục; trường hợp không đồng ý thì Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Người được hưởng án treo khi đến nơi cư trú mới phải trình báo với Công an cấp xã nơi mình đến tạm trú, lưu trú; hết thời hạn tạm trú, lưu trú phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an cấp xã nơi tạm trú, lưu trú. Trường hợp người được hưởng án treo vi phạm pháp luật, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó đến tạm trú, lưu trú phải thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục kèm theo tài liệu có liên quan.
- Việc giải quyết trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc thực hiện theo quy định tại Điều 68 của Luật này. 4. Người được hưởng án treo không được xuất cảnh trong thời gian thử thách.
Như vậy: Trong thời gian chấp hành án treo cá nhân vẫn CÓ THỂ đi làm nếu việc làm được xác định là chính đáng và có sự chấp thuận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục.
Bên cạnh đó, cơ quan, tổ chức nơi người đang hưởng án treo làm việc cũng có trách nhiệm phối hợp với gia đình và chính quyền địa phương trong việc quản lý, giám sát và giáo dục nhằm giúp họ rèn luyện, tiến bộ và sớm hòa nhập hoàn toàn với cộng đồng.
2. Vì sao pháp luật cho phép người chấp hành án treo vẫn có thể được đi làm?
a. Xuất phát từ bản chất nhân đạo và mục đích giáo dục của hình phạt án treo:
Án treo là hình phạt tù nhưng cho người phạm tội được hoãn việc chấp hành hình phạt trong trại giam để thay vào đó là thời gian thử thách tại cộng đồng. Bản chất của án treo không nhằm trừng phạt hay cách ly người phạm tội khỏi xã hội, mà nhằm giáo dục, cảm hóa và tạo cơ hội cho họ sửa chữa lỗi lầm trong điều kiện đời sống bình thường. Vì vậy, người đang hưởng án treo vẫn được sinh sống, làm việc, học tập và tham gia các hoạt động xã hội dưới sự quản lý, giám sát của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương. Quy định này thể hiện tính nhân văn sâu sắc của pháp luật hình sự Việt Nam cũng như hướng đến phục hồi con người thay vì loại bỏ họ khỏi cộng đồng.
b. Việc cho phép đi làm giúp người chấp hành án treo có cơ hội tái hòa nhập xã hội sớm:
Một trong những mục tiêu quan trọng của chính sách hình sự hiện đại là tái hòa nhập cộng đồng. Người phạm tội sau khi được cho hưởng án treo thường đã có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và thể hiện khả năng tự cải tạo. Do đó, việc được đi làm không chỉ giúp họ có thu nhập ổn định, tự nuôi sống bản thân và gia đình mà còn củng cố ý thức trách nhiệm, khơi dậy tinh thần lao động lương thiện và tránh xa các hành vi vi phạm pháp luật khác. Mặt khác, môi trường làm việc lành mạnh cũng tạo điều kiện cho họ được tiếp xúc, giao lưu, thể hiện năng lực và dần lấy lại niềm tin của xã hội. Nhờ vậy, người hưởng án treo có thể nhanh chóng trở thành công dân có ích, góp phần giảm gánh nặng quản lý cho cơ quan Nhà nước và nâng cao hiệu quả cải tạo ngoài xã hội.
c. Quy định này phù hợp với nguyên tắc phân hóa hình phạt trong Bộ luật Hình sự 2015:
Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015 quy định rõ nguyên tắc phân hóa hình phạ. Tức là tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và nhân thân người phạm tội mà áp dụng hình thức xử lý phù hợp. Người được cho hưởng án treo thường không còn nguy hiểm cho xã hội, có khả năng tự cải tạo và không cần thiết phải cách ly khỏi cộng đồng. Chính vì vậy, việc cho phép họ đi làm trong thời gian thử thách là hoàn toàn phù hợp với tính chất nhẹ hơn của hình phạt án treo so với hình phạt tù giam; đồng thời bảo đảm tính nhân đạo, hợp lý và công bằng trong áp dụng pháp luật hình sự.
d. Tác động tích cực đối với xã hội và gia đình người chấp hành án treo:
Không chỉ có ý nghĩa đối với cá nhân mà quy định này còn mang lại lợi ích thiết thực cho xã hội và gia đình. Khi người chấp hành án treo được đi làm, họ không trở thành gánh nặng kinh tế cho người thân mà ngược lại còn có thể đóng góp thu nhập, nuôi con, chăm sóc cha mẹ hoặc thực hiện nghĩa vụ bồi thường dân sự nếu có. Đối với xã hội, việc duy trì khả năng lao động của họ giúp giảm chi phí giam giữ, giảm áp lực cho cơ sở cải tạo và góp phần ổn định an sinh xã hội. Tất cả những lợi ích này cho thấy, quy định cho phép người hưởng án treo đi làm là giải pháp nhân văn, hợp lý và phù hợp với chính sách hình sự tiến bộ của Việt Nam hiện nay.
3. Người đang hưởng án treo có thể bị đuổi việc không?
Các trường hợp áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải được quy định tại Điều 125 Bộ luật Lao động 2019. Trong đó bao gồm:
- Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng ma túy tại nơi làm việc;
- Người lao động có hành vi tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động, có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của người sử dụng lao động hoặc quấy rối tình dục tại nơi làm việc được quy định trong nội quy lao động;
- Người lao động bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương hoặc cách chức mà tái phạm trong thời gian chưa xóa kỷ luật. Tái phạm là trường hợp người lao động lặp lại hành vi vi phạm đã bị xử lý kỷ luật mà chưa được xóa kỷ luật theo quy định tại Điều 126 của Bộ luật này;
- Người lao động tự ý bỏ việc 05 ngày cộng dồn trong thời hạn 30 ngày hoặc 20 ngày cộng dồn trong thời hạn 365 ngày tính từ ngày đầu tiên tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng. Trường hợp được coi là có lý do chính đáng bao gồm thiên tai, hỏa hoạn, bản thân, thân nhân bị ốm có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền và trường hợp khác được quy định trong nội quy lao động.
Đồng thời, khoản 4 Điều 34 Bộ luật lao động 2019 quy định: Người lao động bị kết án phạt tù nhưng không được hưởng án treo hoặc không thuộc trường hợp được trả tự do theo quy định tại khoản 5 Điều 328 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tử hình hoặc bị cấm làm công việc ghi trong hợp đồng lao động theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Như vậy: Người sử dụng lao động KHÔNG có căn cứ sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động vì lý do người lao động đang hưởng án treo.
3. Người đang hưởng án treo có được đi chơi tại địa phương khác không?
Khoản 1 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự 2019 quy định giải quyết việc vắng mặt tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người hưởng án treo như sau: Người được hưởng án treo có thể vắng mặt tại nơi cư trú nếu có lý do chính đáng và phải xin phép theo quy định tại khoản 2 Điều này, phải thực hiện khai báo tạm vắng theo quy định của pháp luật về cư trú. Thời gian vắng mặt tại nơi cư trú mỗi lần không quá 60 ngày và tổng số thời gian vắng mặt tại nơi cư trú không được vượt quá một phần ba thời gian thử thách, trừ trường hợp bị bệnh phải điều trị tại cơ sở y tế theo chỉ định của bác sỹ và phải có xác nhận điều trị của cơ sở y tế đó.
Theo quy định pháp luật, Tòa án sẽ giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi cư trú để giám sát và giáo dục trong suốt thời gian thử thách.
Đáng chú ý, Luật Thi hành án hình sự năm 2019 cho phép người đang chấp hành án treo có thể được vắng mặt tại nơi cư trú nếu có lý do chính đáng, nhưng việc này phải được sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền và thực hiện đầy đủ thủ tục khai báo tạm vắng theo quy định.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng mỗi lần vắng mặt không được quá 60 ngày, và tổng thời gian vắng mặt không vượt quá 1/3 thời gian thử thách. Ngoại lệ chỉ áp dụng cho trường hợp phải điều trị bệnh tại cơ sở y tế theo chỉ định của bác sĩ, đồng thời phải có giấy xác nhận của cơ sở điều trị.
Từ đó, người đang hưởng án treo vẫn CÓ THỂ đi du lịch hoặc công tác tại địa phương khác miễn là có lý do chính đáng và được Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục đồng ý bằng văn bản. Việc tuân thủ đúng quy trình không chỉ giúp người hưởng án treo thể hiện ý thức chấp hành pháp luật mà còn tạo điều kiện để họ hòa nhập xã hội một cách lành mạnh, tích cực.
THAM KHẢO THÊM:

Tư vấn pháp luật qua Zalo


