Sau khi được xóa án tích, người phạm tội được pháp luật coi như chưa từng bị kết án, tức là được phục hồi đầy đủ quyền công dân và không còn bị xem là có “tiền án”. Tuy nhiên, trên thực tế, không ít người thắc mắc: Đã được xóa án tích mà sau đó lại phạm tội mới thì có bị coi là tái phạm hay không? Đây là vấn đề quan trọng trong việc phân biệt trách nhiệm hình sự và xác định tình tiết tăng nặng khi xét xử, thể hiện rõ ranh giới giữa chính sách khoan hồng và nguyên tắc nghiêm minh của pháp luật hình sự Việt Nam.
Mục lục bài viết
1. Khi nào một hành vi vi phạm sẽ bị coi là tái phạm?
Xóa án tích là một chế định pháp lý được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015 thể hiện chính sách nhân đạo và khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội đã chấp hành xong bản án và có quá trình cải tạo, rèn luyện tốt. Hiểu một cách đơn giản thì xóa án tích là việc pháp luật công nhận người bị kết án hình sự được coi như chưa từng bị kết án nếu họ đáp ứng đầy đủ các điều kiện luật định.
Đồng thời, pháp luật hiện nay đã có quy định cụ thể về tái phạm. Căn cứ theo quy định tại Điều 53 của Bộ luật Hình sự năm 2015, một hành vi sẽ được xem là tái phạm khi thỏa mãn các yêu cầu sau:
- Tái phạm được xem là trường hợp đã bị kết án, tuy nhiên chưa tiến hành thủ tục xóa án tích tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người thực hiện lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội xuất phát từ lỗi cố ý, hoặc;
- Các đối tượng đó tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội về những loại tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng xuất phát từ lỗi vô ý.
Theo đó, thời điểm xác định hành vi tái phạm là thời điểm các đối tượng thực hiện hành vi phạm tội, không phải là thời điểm có quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Đồng thời theo quy định nêu trên, nếu như hành vi phạm tội suất phát từ lỗi vô nhưng đó là hành vi thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng căn cứ theo quy định tại Điều 9 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì cũng sẽ được coi là hành vi tái phạm.
2. Đã xóa án tích mà phạm tội mới thì có bị xem là tái phạm hay không?
Trong pháp luật hình sự Việt Nam, xóa án tích là một chế định thể hiện rõ chính sách nhân đạo và khoan hồng của Nhà nước đối với người đã chấp hành xong bản án, thể hiện sự tiến bộ và mong muốn được làm lại cuộc đời. Khi được xóa án tích, người đó được coi như chưa từng bị kết án, được khôi phục đầy đủ các quyền công dân và không còn bị coi là người có tiền án. Tuy nhiên trên thực tế, vẫn có những trường hợp người đã được xóa án tích nhưng sau đó lại phạm tội mới.
Theo khoản 2 Điều 69 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về việc, người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích. Bên cạnh đó, căn cứ cứ theo Điều 107 của Bộ luật Hình sự năm 2015 có quy định về việc, người dưới 18 tuổi bị kết án được coi là không có án tích nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi;
- Người tủ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý.
Như vậy Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định rõ một số trường hợp không bị coi là có án tích.
Về vấn đề đương nhiên xóa án tích, theo khoản 2 Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định, người bị kết án đương nhiên được xóa án tích nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
- 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, bị phạt phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng cho hưởng;
- 02 năm trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;
- 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;
- 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình được giảm án.
Như vậy, Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định có lợi hơn Bộ luật Hình sự trước đây theo hướng rút ngắn thời gian đương nhiên xóa án tích và thời gian để tính đương nhiên xóa án tích từ khi chấp hành xong hình phạt chính đến ngày phạm tội mới, riêng đối với hình phạt bổ sung, các quyết định khác chỉ cần người phạm tội thi hành trước thời điểm phạm tội mới.
Bên cạnh đó, căn cứ theo quy định tại Điều 53 của Bộ luật Hình sự năm 2015, có quy định về tái phạm phạm và tái phạm nguy hiểm, cụ thể như sau:
- Tái phạm được coi là những đối tượng và những trường hợp đã bị kết án bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng chưa được xóa án tích theo quy định của pháp luật mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới do lỗi cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về các tội rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xuất phát từ lỗi vô ý;
- Tái phạm nguy hiểm là trường hợp những đối tượng đã bị kết án bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền về tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xuất phát từ lỗi cố ý theo quy định của pháp luật, tuy nhiên chưa được xóa án tích tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội về các loại tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng xuất phát từ lỗi cố ý, hoặc đã tái phạm theo quy định của pháp luật, tuy nhiên, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
Như vậy, với những phân tích trên đây thì trường hợp phạm tội đã được xóa án tích và phạm tội mới theo quy định của pháp luật hình sự thì không thuộc vào trường hợp tái phạm. Vì chế định tái phạm theo quy định của pháp luật được coi là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý chính vì vậy trong trường hợp đã được xóa án tích mà phạm tội mới thì KHÔNG được xem là tái phạm.
3. Chưa được xóa án tích lại phạm tội mới thì xử lý thế nào?
Căn cứ theo quy định tại Điều 53 Bộ luật Hình sự 2015 về tái phạm và tái phạm nguy hiểm như sau:
- Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
- Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm: Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý”.
Như vậy, người chưa được xóa án tích mà lại phạm một tội mới thì sẽ bị coi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Cụ thể:
- Thứ nhất: Tái phạm là khi người bị kết án chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý thì được coi là tái phạm.
- Thứ hai: Tái phạm nguy hiểm là khi:
+ Người bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; hoặc
+ Người bị kết án đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
Theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015, việc tái phạm hay tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt, đây được xem là căn cứ quan trọng để Tòa án quyết định mức hình phạt cho người có hành vi phạm tội.
THAM KHẢO THÊM:

Tư vấn pháp luật qua Zalo


