Việc xóa án tích mang ý nghĩa phục hồi nhân thân và quyền lợi cho người từng bị kết án. Tuy nhiên, nhiều người vẫn băn khoăn: Vậy xóa án tích xong, liệu có được xem như chưa từng phạm tội hay không? Câu hỏi này không chỉ liên quan đến lý lịch tư pháp mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến cách áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nếu họ phạm tội mới.
Mục lục bài viết
1. Xóa án tích xong có coi như chưa từng phạm tội không?
Điều 69 Bộ luật Hình sự 2015 quy định:
- Người bị kết án được xóa án tích theo quy định tại các điều từ Điều 70 đến Điều 73 của Bộ luật Hình sự 2015;
- Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án;
- Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích.
Điều 70 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về xóa án tích: Đương nhiên được xóa án tích được áp dụng đối với người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật Hình sự khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 70 Bộ luật Hình sự. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
- 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo;
- 02 năm trong trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;
- 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;
- 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.
”Phạm tội lần đầu” là một khái niệm độc lập trong pháp luật hình sự, không đồng nhất và cũng không phụ thuộc vào các chế định khác như: phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, tiền án hoặc tiền sự… Việc xác định một người ”phạm tội lần đầu” được xem xét riêng biệt dựa trên bản chất hành vi và nhân thân của người phạm tội, mà không phải chỉ dựa vào tiền án hay tình trạng xóa án tích của họ.
Theo Điều 63 Bộ luật Hình sự năm 2015 (như phân tích nêu trên), người được xóa án tích sẽ ”được coi như chưa từng bị kết án”, chứ không phải được coi như “chưa từng phạm tội”. Đây là 02 khái niệm hoàn toàn khác nhau về bản chất pháp lý. Một người có thể đã từng phạm tội nhiều lần nhưng nếu đã được xóa án tích theo quy định của pháp luật thì họ không bị coi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm khi thực hiện hành vi phạm tội mới. Đồng thời, họ cũng không còn bị xem là có tiền án. Tuy nhiên thực tế, người đó vẫn là người đã từng phạm tội trong quá khứ và không thể được xem là ”phạm tội lần đầu”.
Mặt khác, “phạm tội lần đầu” được coi là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại kkhoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tình tiết này thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với những người chưa bao giờ thực hiện hành vi phạm tội; hoặc chỉ vì hoàn cảnh đặc biệt, thiếu nhận thức hoặc bị tác động khách quan mà lần đầu vi phạm pháp luật hình sự. Do đó, người đã từng bị kết án và sau đó được xóa án tích, nếu lại phạm tội mới thì không được coi là phạm tội lần đầu, bởi họ đã từng thực hiện hành vi phạm tội trước đó (dù án tích đã được xóa bỏ).
Tóm lại: Xóa án tích chỉ được xem như chưa bị kết án mà KHÔNG đồng nghĩa với việc chưa từng phạm tội.
2. Đã xóa án tích sau đó phạm tội mới thì có bị coi là tái phạm không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 53 của Bộ luật hình sự năm 2015, có quy định về tái phạm phạm và tái phạm nguy hiểm, cụ thể như sau:
- Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
- Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm: Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
Như vậy, với những phân tích trên đây thì trường hợp phạm tội đã được xóa án tích và phạm tội mới theo quy định của pháp luật hình sự thì KHÔNG thuộc vào trường hợp tái phạm.
Bởi ”tái phạm” theo quy định của pháp luật được coi là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. Do đó, trong trường hợp đã được xóa án tích mà phạm tội mới thì không được xem là tái phạm.
3. Đã xóa án tích có được xem là nhân thân tốt không?
Hiện nay, trong thực tiễn xét xử vẫn tồn tại hai luồng quan điểm khác nhau về việc xác định người đã được xóa án tích có được xem là người có nhân thân tốt hay không. Đây là vấn đề pháp lý vừa mang tính lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc đánh giá tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi người đó phạm tội mới.
- Quan điểm thứ nhất: Người đã được xóa án tích có thể được coi là có nhân thân tốt.
Theo quan điểm này, người phạm tội sau khi chấp hành xong hình phạt và được xóa án tích theo quy định của pháp luật đã hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ pháp lý của mình. Khi hết thời hạn xóa án tích, hồ sơ lý lịch tư pháp của họ không còn ghi nhận tiền án, tức là về mặt pháp lý thì họ được coi như chưa từng bị kết án. Từ góc độ nguyên tắc nhân đạo của pháp luật hình sự, việc xóa án tích nhằm khuyến khích người phạm tội cải tạo tốt, hoàn lương và tái hòa nhập cộng đồng. Do đó, nhiều ý kiến cho rằng sau khi xóa án tích, người đó cần được nhìn nhận như một công dân bình thường, có nhân thân tốt và trong trường hợp phạm tội mới, do đó được xem là phạm tội lần đầu để được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Việc coi họ là người có nhân thân tốt thể hiện đúng tinh thần khoan hồng, nhân đạo và cơ hội làm lại cuộc đời mà pháp luật hướng đến.
- Quan điểm thứ hai: Người đã được xóa án tích không thể được coi là có nhân thân tốt.
Dù người phạm tội đã được xóa án tích và trong lý lịch ghi nhận “không có tiền án”. Tuy nhiên nội dung này chỉ được ghi nhận trong Phiếu lý lịch tư pháp số 01, còn Phiếu lý lịch tư phấp số 02 vẫn thể hiện đầy đủ án tích của cá nhân. Hơn nữa về bản chất thì họ vẫn đã từng phạm tội. Do đó, không thể coi họ là người có nhân thân tốt cũng như không thể coi hành vi phạm tội sau khi được xóa án tích là ”phạm tội lần đầu”. Cần phản ánh đúng thực tế rằng họ đã phạm tội song cũng đã cải tạo và phục thiện.
- Đánh giá:
Đối với 02 quan điểm nêu trên, chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ hai bởi việc đồng nhất người đã được xóa án tích với người có nhân thân tốt là không hợp lý về mặt pháp lý và không phù hợp với mục đích răn đe của hình phạt. Nếu pháp luật cho phép coi họ hoàn toàn như người chưa từng phạm tội, tính nghiêm minh và tác dụng phòng ngừa của pháp luật hình sự sẽ bị suy giảm, dễ dẫn đến việc một số đối tượng lợi dụng quy định nhân đạo về xóa án tích để tái phạm tội.
Do đó, người đã được xóa án tích nên được hiểu là người có nhân thân trung bình – họ không còn mang án tích, song cũng không thể được xem là người có ”nhân thân tốt” theo đúng nghĩa pháp lý của khái niệm này.
Hiện nay, Bộ luật Hình sự năm 2015 chưa có quy định cụ thể về việc đánh giá nhân thân của người đã được xóa án tích. Chính sự thiếu rõ ràng này dẫn đến cách hiểu và áp dụng không thống nhất trong thực tiễn tố tụng và xét xử, đặc biệt khi xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đây là một khoảng trống pháp lý cần được hướng dẫn cụ thể trong tương lai để bảo đảm việc áp dụng pháp luật thống nhất, khách quan và công bằng.
THAM KHẢO THÊM:

Tư vấn pháp luật qua Zalo


