Sau khi chấp hành xong án phạt tù, nhiều người mong muốn được xóa án tích để ổn định cuộc sống, tìm việc làm và hòa nhập cộng đồng. Tuy nhiên, không ít trường hợp băn khoăn: Vẫn còn hình phạt bổ sung chưa thi hành xong thì có được xóa án tích hay không? Bài viết dưới đây sẽ làm rõ quy định pháp luật và lý do vì sao việc chấp hành đầy đủ hình phạt bổ sung lại là điều kiện bắt buộc khi thực hiện thủ tục xóa án tích.
Mục lục bài viết
2. Có được xoá án tích khi chưa chấp hành hình phạt bổ sung không?
Theo Điều 70 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định người bị kết án có thể đương nhiên được xóa án tích nếu đáp ứng một số điều kiện cụ thể như sau:
- Đương nhiên được xóa án tích được áp dụng đối với người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật Hình sự năm 2015 khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 70 của Bộ luật Hình sự năm 2015
- Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
+ Trong 1 năm đối với trường hợp người bị kết án phải chịu các hình phạt nhẹ như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo;
+ Trong 2 năm đối với các trường hợp bị kết án phạt tù có thời hạn không quá 5 năm;
+ Trong 3 năm đối với những trường hợp bị kết án phạt tù từ trên 5 năm đến 15 năm;
+ Trong 5 năm đối với các mức án nghiêm trọng nhất, bao gồm phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình đã được giảm xuống hình phạt khác.
Đối với người bị kết án phải chịu các hình phạt bổ sung như quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân, thời gian cần thiết để được đương nhiên xóa án tích sẽ kéo dài cho đến khi người đó chấp hành xong các hình phạt bổ sung này nếu thời gian đó dài hơn so với các mốc thời gian nêu trên.
Trường hợp hết thời hiệu thi hành bản án: Nếu người bị kết án không phải chấp hành hình phạt do đã hết thời hiệu thi hành bản án, thì từ thời điểm hết thời hiệu đó, họ phải tuân thủ các điều kiện như không phạm tội mới và đảm bảo thời hạn không vi phạm quy định tại khoản 2 của Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 2015. Chỉ khi đáp ứng đủ các điều kiện này, họ mới đương nhiên được xóa án tích.
Như vậy, việc chấp hành đầy đủ hình phạt bổ sung là điều kiện bắt buộc để người bị kết án được xóa án tích. Nếu người đó chỉ thực hiện xong hình phạt chính mà chưa hoàn thành các hình phạt bổ sung hoặc các nghĩa vụ khác được ghi trong bản án thì họ sẽ không đủ điều kiện hưởng quyền lợi xóa án tích. Quy định này nhằm đảm bảo rằng trước khi được xóa án tích, người phạm tội đã hoàn toàn thực hiện mọi nghĩa vụ theo bản án, thể hiện đầy đủ trách nhiệm pháp lý và ý nghĩa trừng phạt, giáo dục của hình phạt.
Hay nói cách khác, chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung thì CHƯA đủ điều kiện để được xóa án tích.
2. Tại sao phải chấp hành xong hình phạt bổ sung mới được xóa án tích?
Hình phạt bổ sung là hình phạt được Tòa án áp dụng kèm theo hình phạt chính trong bản án hình sự nhằm tăng cường tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm. Hình phạt bổ sung có thể được áp dụng độc lập hoặc cùng với hình phạt chính, tùy tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội.
Việc pháp luật quy định người bị kết án phải chấp hành xong hình phạt bổ sung mới được xóa án tích thể hiện quan điểm xuyên suốt của Nhà nước về nguyên tắc thi hành án triệt để và công bằng trong xử lý tội phạm. Trong một bản án hình sự, hình phạt chính (như phạt tù, cải tạo không giam giữ, cảnh cáo…) và hình phạt bổ sung (như phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề, tước quyền công dân, quản chế, trục xuất…) là 02 bộ phận cấu thành của tổng thể hình phạt. Chỉ khi người bị kết án thực hiện đầy đủ cả cả 02 phần này thì bản án mới được xem là được thi hành xong. Nếu cho phép xóa án tích khi hình phạt bổ sung chưa thi hành sẽ làm sai lệch ý nghĩa trừng phạt, giáo dục và phòng ngừa tội phạm của pháp luật hình sự. Cụ thể:
- Thứ nhất: Về phương diện pháp lý, quy định này nhằm đảm bảo tính nghiêm minh và công bằng của bản án. Hình phạt bổ sung được xem là biện pháp thể hiện thái độ của Nhà nước đối với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Do đó, người bị kết án chỉ được xem là đã hoàn toàn chấp hành xong bản án khi họ không còn bất kỳ nghĩa vụ pháp lý nào phải thực hiện. Chỉ khi đó, Tòa án mới có căn cứ để xem xét việc xóa bỏ án tích (tức là ghi nhận người đó đã hoàn thành toàn bộ trách nhiệm pháp lý đối với Nhà nước và xã hội). Việc này giúp bảo đảm rằng cơ chế xóa án tích không bị lợi dụng để “trốn tránh” nghĩa vụ hoặc tạo tiền lệ không công bằng giữa những người phạm tội khác nhau.
- Thứ hai: Quy định này còn mang ý nghĩa giáo dục và xã hội sâu sắc. Khi buộc người phạm tội phải thực hiện đầy đủ cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung trước khi được xóa án tích, pháp luật khuyến khích họ thể hiện sự ăn năn và trách nhiệm trong việc khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội gây ra. Điều này giúp người chấp hành án tự giác tuân thủ pháp luật, xây dựng lại uy tín cá nhân và từng bước lấy lại niềm tin của cộng đồng. Đồng thời quy định còn góp phần củng cố niềm tin của xã hội vào công lý.
Tóm lại, yêu cầu “chấp hành xong hình phạt bổ sung mới được xóa án tích” không chỉ là một điều kiện mang tính kỹ thuật trong thủ tục tố tụng hình sự mà là nguyên tắc bảo đảm sự toàn vẹn của việc thi hành án, thể hiện sự nghiêm minh, công bằng và nhân văn của pháp luật Việt Nam. Quy định này khẳng định rằng xóa án tích là sự ghi nhận quá trình cải tạo toàn diện, mà không phải là sự miễn trừ trách nhiệm khi còn dang dở.
3. Mỗi tội phạm được áp dụng bao nhiêu hình phạt bổ sung?
Hình phạt bổ sung là hình phạt được áp dụng kèm theo hình phạt chính đối với những tội phạm nhất định nhằm tăng cường, củng cố tác dụng của hình phạt chính. Các hình phạt đối với người phạm tội được quy định tại Điều 32 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
a. Hình phạt chính bao gồm:
- Cảnh cáo;
- Phạt tiền;
- Cải tạo không giam giữ;
- Trục xuất;
- Tù có thời hạn;
- Tù chung thân;
- Tử hình.
b. Hình phạt bổ sung bao gồm:
- Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định;
- Cấm cư trú;
- Quản chế;
- Tước một số quyền công dân;
- Tịch thu tài sản;
- Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính;
- Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính.
c. Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung.
Như vậy: Đối với những tội danh có tính chất nghiêm trọng và gây ra những hậu quả lớn cho xã hội thì Tòa án sẽ có thêm hình phạt bổ sung cho người phạm tội nhằm đảm bảo hơn tính răn đe. Đồng thời đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính nhưng có thể bị áp dụng một hoặc một số (nhiều) hình phạt bổ sung.
Về nguyên tắc, pháp luật không đặt giới hạn số lượng tuyệt đối cho hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, Tòa án phải đảm bảo tính hợp lý, tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi và không trái nguyên tắc pháp luật. Trên thực tiễn, mỗi bản án chỉ áp dụng 1 đến 3 hình phạt bổ sung, tránh áp đặt quá nhiều biện pháp hạn chế cho người phạm tội. Tuy nhiên, việc lựa chọn hình phạt phải phù hợp với tính chất tội phạm, mức độ thiệt hại và quy định pháp luật, đảm bảo công bằng, hợp lý và hiệu quả giáo dục phòng ngừa.
THAM KHẢO THÊM:

Tư vấn pháp luật qua Zalo


