Án treo là chính sách hình sự nhân đạo cho phép người phạm tội được cải tạo ngoài xã hội. Thời gian thử thách là giai đoạn để họ chứng minh sự hối cải, tuân thủ pháp luật và đủ điều kiện tái hòa nhập cộng đồng. Bài viết sẽ phân tích rõ quy định, mục đích và ý nghĩa của thời gian thử thách trong án treo theo pháp luật hiện hành.
Mục lục bài viết
1. Mục đích và ý nghĩa của thời gian thử thách trong án treo:
1.1. Mục đích của thời gian thử thách:
Thời gian thử thách là khoảng thời gian mà người được hưởng án treo không phải chấp hành hình phạt tù nhưng phải chịu sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương hoặc đơn vị quân đội và thể hiện sự cải tạo, tuân thủ pháp luật trong thực tế.
Theo khoản 1 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, thời gian thử thách được Tòa án ấn định từ 01 năm đến 05 năm tùy thuộc vào mức hình phạt và tính chất của hành vi phạm tội. Mục đích của khoảng thời gian này có thể nhìn nhận ở những khía cạnh sau:
- Thứ nhất, tạo cơ hội tự cải tạo cho người phạm tội: Thay vì phải chấp hành hình phạt tù trong môi trường cách ly, người được hưởng án treo có thể sống trong cộng đồng, duy trì các mối quan hệ xã hội, lao động, học tập để tự chứng minh sự tiến bộ, ăn năn hối cải. Đây là biểu hiện rõ rệt của chính sách hình sự nhân đạo mà Nhà nước Việt Nam theo đuổi.
- Thứ hai, kiểm nghiệm quá trình cải tạo của người phạm tội: Thời gian thử thách là giai đoạn để Nhà nước đánh giá liệu người phạm tội có thật sự cải tạo tốt, có ý thức tuân thủ pháp luật, có khả năng tái hòa nhập xã hội mà không cần cách ly khỏi cộng đồng hay không. Nếu người được hưởng án treo vi phạm nghĩa vụ trong thời gian này, Tòa án có thể hủy án treo và buộc chấp hành hình phạt tù (khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015).
- Thứ ba, đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung: Mặc dù án treo là hình phạt nhân đạo nhưng việc ấn định thời gian thử thách kèm nghĩa vụ giám sát, giáo dục vẫn thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật. Người được hưởng án treo phải luôn ý thức rằng họ đang trong giai đoạn bị thử thách và mọi hành vi vi phạm trong thời gian này đều có thể dẫn đến hậu quả pháp lý nghiêm khắc.
1.2. Ý nghĩa của thời gian thử thách trong chính sách hình sự:
Khẳng định nguyên tắc nhân đạo, khoan hồng của pháp luật hình sự Việt Nam: Án treo nói chung và thời gian thử thách nói riêng, phản ánh tinh thần “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”, tạo điều kiện cho người phạm tội tự sửa chữa lỗi lầm, hạn chế tối đa việc áp dụng hình phạt tù không cần thiết.
- Góp phần giảm tải cho hệ thống giam giữ: Khi người phạm tội có nhân thân tốt, phạm tội ít nghiêm trọng và có khả năng cải tạo, việc cho hưởng án treo giúp giảm bớt áp lực cho các cơ sở giam giữ, đồng thời tiết kiệm nguồn lực của Nhà nước trong công tác thi hành án.
- Tăng cường hiệu quả tái hòa nhập cộng đồng: Người được hưởng án treo vẫn có điều kiện tiếp tục làm việc, học tập, chăm sóc gia đình; qua đó duy trì các giá trị đạo đức, nghề nghiệp, và phục hồi vị thế xã hội. Việc này góp phần giảm tỷ lệ tái phạm tội và củng cố niềm tin của xã hội vào khả năng tự sửa chữa của con người.
- Tăng tính giáo dục và răn đe xã hội: Việc công khai giám sát người được hưởng án treo trong cộng đồng cũng mang ý nghĩa tuyên truyền, nhắc nhở mọi người về hậu quả của hành vi phạm tội; đồng thời khuyến khích tuân thủ pháp luật và trách nhiệm công dân.
2. Chế độ thử thách của án treo trong Luật hình sự Việt Nam:
Chế độ thử thách của án treo về cơ bản được hiểu là người bị án treo sẽ phải chịu một thời gian thử thách nhất định từ 01 năm đến 05 năm và bao giờ thời gian thử thách cũng phải lớn hơn mức hình phạt tù. Trong thời gian thử thách người bị án treo phải chịu sự giám sát giáo dục của cơ quan tổ chức được Tòa án giao trách nhiệm giám sát, giáo dục. Trong thời gian thử thách nếu người bị án treo phạm tội mới thì biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù bị xóa bỏ người bị án treo sẽ bị buộc phải chấp hành hình phạt tù trong bản án cho hưởng án treo trước đó cộng với hình phạt của bản án về tội phạm mới thực hiện. Cụ thể về chế độ này được pháp luật quy định như sau:
2.1. Thời gian thử thách khi hưởng án treo:
Thời gian thử thách của án treo là thời gian mà Tòa án ấn định để thử thách người bị kết án được hưởng án treo, nếu hết thời gian đó mà người bị kết án không phạm tội mới thì hình phạt tù mà Tòa án quyết định đối với người bị kết án sẽ không phải thi hành. Ngược lại, nếu trong thời gian đó người bị kết án lại phạm tội mới thì người bị kết án, ngoài việc phải chấp hành hình phạt đối với tội mới phạm, còn phải chấp hành hình phạt tù mà Tòa án đã cho họ hưởng án treo.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 60 Bộ luật hình sự năm 2015 thì thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo là từ 01 năm đến 05 năm. Không được dưới một năm và không được quá năm năm, đặc biệt không được miễn thời gian thử thách. Nếu theo quy định này thì người bị phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm, Tòa án có thể ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm mà không bị ràng buộc bởi tỷ lệ bao nhiêu tháng, bao nhiêu năm tù thì bị thử thách bao nhiêu năm… mà có thể người phạm tội chỉ bị xử phạt 03 tháng tù nhưng có thể bị thử thách 05 năm, ngược lại người phạm tội bị xử phạt 3 năm tù nhưng chỉ phải thử thách một năm. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử, thông thường các Tòa án ấn định thời gian thử thách gấp đôi (1/2) thời gian của hình phạt tù.
2.2. Trường hợp được rút ngắn thời gian thử thách:
Người bị án treo có thể được rút ngắn thời hạn thử thách là một điểm mới được quy định trong Luật Thi hành án hình sự năm 2019. Luật Thi hành án hình sự cũ chỉ nêu thủ tục rút ngắn thời gian thử thách của người được hưởng án treo.
Người được hưởng án treo được đề nghị rút ngắn thời gian thử thách khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Đã chấp hành được 1/2 thời gian thử thách;
- Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo đã chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, các nghĩa vụ theo quy định; tích cực học tập, lao động, sửa chữa lỗi lầm hoặc lập thành tích trong lao động, bảo vệ an ninh, trật tự được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng.
- Người được hưởng án treo chỉ được xét rút ngắn thời gian thử thách mỗi năm 01 lần, mỗi lần từ 01 tháng đến 01 năm. Trường hợp thời gian thử thách còn lại không quá 01 tháng thì có thể được rút ngắn hết thời gian thử thách còn lại. Người được hưởng án treo có thể được rút ngắn thời gian thử thách nhiều lần, nhưng phải bảo đảm thực tế đã chấp hành ba phần tư thời gian thử thách.
- Trường hợp người được hưởng án treo lập công hoặc bị bệnh hiểm nghèo và có đủ các điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều này thì Tòa án có thể rút ngắn hết thời gian thử thách còn lại. Trường hợp người được hưởng án treo đã được rút ngắn thời gian thử thách nhưng sau đó vi phạm nghĩa vụ quy định và bị Tòa án quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo thì thời gian thử thách đã được rút ngắn không được tính để trừ vào thời gian chấp hành án phạt tù.
2.3. Nghĩa vụ của người hưởng án treo trong chế độ thử thách:
Căn cứ quy định tại Điều 87 Luật Thi hành án hình sự 2019 thì người được hưởng án treo có các nghĩa vụ sau:
- Có mặt theo giấy triệu tập và cam kết việc chấp hành án theo quy định tại Khoản 1 Điều 85 của Luật Thi hành án hình sự năm 2019;
- Thực hiện nghiêm chỉnh cam kết trong việc tuân thủ pháp luật, nghĩa vụ công dân, nội quy, quy chế của nơi cư trú, nơi làm việc, học tập; chấp hành đầy đủ hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp vì lý do khách quan được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận;
- Chịu sự giám sát, giáo dục của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu nơi cư trú, nơi làm việc;
- Chấp hành quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự năm 2019;
- Phải có mặt theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu;
- Hằng tháng phải báo cáo bằng văn bản với Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục về tình hình chấp hành nghĩa vụ của mình. Trường hợp vắng mặt theo quy định tại Khoản 1 Điều 92 củaLuật Thi hành án hình sự năm 2019 thì khi hết thời hạn vắng mặt, người được hưởng án treo phải báo cáo về tình hình chấp hành nghĩa vụ của mình.
3. Một số vướng mắc và thực tiễn áp dụng chế độ thử thách của án treo:
3.1. Những khó khăn trong công tác giám sát, giáo dục người được hưởng án treo:
Theo quy định tại Điều 86 Luật Thi hành án hình sự năm 2019, người được hưởng án treo phải chịu sự giám sát, giáo dục của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc đơn vị quân đội được giao giám sát. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ này còn gặp nhiều trở ngại:
- Thứ nhất, thiếu nhân sự chuyên trách và công cụ giám sát: Nhiều xã, phường, thị trấn chưa bố trí cán bộ có kiến thức pháp lý hoặc nghiệp vụ quản lý thi hành án, dẫn đến việc giám sát chủ yếu mang tính hình thức. Việc theo dõi định kỳ hằng tháng, lập hồ sơ nhận xét, đánh giá đôi khi chỉ làm “cho đủ thủ tục”, không phản ánh đúng thái độ cải tạo của người được hưởng án treo.
- Thứ hai, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan: Mối liên hệ giữa Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án hình sự và chính quyền địa phương chưa thật sự nhịp nhàng. Một số địa phương phản ánh việc chuyển giao hồ sơ người được hưởng án treo bị chậm, hoặc không có thông tin cụ thể về nội dung bản án, khiến việc theo dõi, giáo dục gặp khó khăn.
- Thứ ba, yếu tố địa lý và di biến động dân cư: Khi người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc mà không thông báo, chính quyền cơ sở rất khó quản lý. Dù khoản 2 Điều 87 Luật Thi hành án hình sự 2019 yêu cầu người đó phải thông báo việc di chuyển, nhưng trên thực tế việc kiểm soát gần như không khả thi nếu họ cố tình tránh né.
3.2. Các sai sót thường gặp trong việc tính thời gian thử thách và rút ngắn thời gian:
Một trong những nội dung dễ phát sinh tranh chấp, khiếu nại trong quá trình áp dụng án treo chính là việc xác định thời gian thử thách và điều kiện rút ngắn.
- Sai sót về thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách: Theo khoản 1 Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015, thời gian thử thách của án treo được tính từ ngày tuyên án sơ thẩm chứ không phải từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, không ít trường hợp Tòa án hoặc cơ quan thi hành án hiểu nhầm, dẫn đến tính sai mốc thời gian, ảnh hưởng đến quyền lợi của người được hưởng án treo.
- Sai sót khi xét rút ngắn thời gian thử thách: Căn cứ Điều 89 Luật Thi hành án hình sự 2019 và Điều 8 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP, người được hưởng án treo có thể được xem xét rút ngắn thời gian thử thách nếu chấp hành tốt pháp luật, hoàn thành nghĩa vụ dân sự và có thành tích trong lao động, học tập. Tuy nhiên, nhiều địa phương chưa nắm vững quy trình, dẫn đến việc lập hồ sơ đề nghị rút ngắn thiếu tài liệu, không đúng thời hạn, hoặc gửi sai thẩm quyền.
- Sai sót trong việc xác định mức rút ngắn: Theo quy định, mỗi năm chỉ được rút ngắn tối đa 01 năm thử thách, trừ trường hợp đặc biệt có thể rút ngắn nhiều hơn nhưng vẫn phải bảo đảm ít nhất 1/2 thời gian thử thách được chấp hành. Thực tiễn cho thấy một số cơ quan có thẩm quyền đã áp dụng sai quy định này, làm phát sinh khiếu nại hoặc bị Viện kiểm sát kháng nghị.
3.3. Kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng:
Để chế độ thử thách của án treo thực sự phát huy vai trò nhân đạo và giáo dục trong chính sách hình sự, cần có những cải thiện cụ thể về cả pháp lý lẫn tổ chức thực hiện:
- Một là, hoàn thiện quy định pháp luật hướng dẫn chi tiết hơn: Cần sớm có văn bản thay thế hoặc bổ sung Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP theo hướng quy định rõ quy trình giám sát, đánh giá và chuyển giao hồ sơ người hưởng án treo giữa các địa phương. Đồng thời, thống nhất biểu mẫu nhận xét, đánh giá, rút ngắn thời gian thử thách để giảm sai sót.
- Hai là, tăng cường năng lực và trách nhiệm của chính quyền địa phương: Ủy ban nhân dân cấp xã nên có cán bộ chuyên trách thi hành án hình sự, được tập huấn thường xuyên về kỹ năng quản lý, giáo dục, hồ sơ theo dõi người chấp hành án treo. Cần gắn trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã trong trường hợp để xảy ra vi phạm do buông lỏng quản lý.
- Ba là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giám sát: Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu điện tử quốc gia về người được hưởng án treo, kết nối giữa Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án và Ủy ban nhân dân cấp xã, giúp theo dõi quá trình chấp hành nghĩa vụ, cảnh báo khi có vi phạm.
- Bốn là, phát huy vai trò giám sát của Viện kiểm sát nhân dân: Viện kiểm sát cần thực hiện thường xuyên việc kiểm tra, giám sát công tác thi hành án treo tại các địa phương, phát hiện sai phạm và kịp thời kiến nghị khắc phục.
THAM KHẢO THÊM:

Tư vấn pháp luật qua Zalo


