Khi xảy ra sự việc gây thiệt hại, việc chủ động bồi thường là cách thể hiện thiện chí và trách nhiệm của người gây ra hậu quả. Tuy nhiên, trên thực tế không ít trường hợp bị hại từ chối nhận bồi thường, khiến người gây thiệt hại lúng túng không biết phải xử lý thế nào để vừa đúng luật vừa không bị bất lợi trong quá trình giải quyết vụ án. Vậy cần phải làm gì khi đã thiện chí bồi thường nhưng bị hại không nhận?
Mục lục bài viết
- 1 1. Bồi thường nhưng bị hại không nhận thì có được xem là tình tiết giảm nhẹ không?
- 2 2. Cần phải làm gì khi bồi thường nhưng bị hại không nhận?
- 2.1 2.1. Ghi nhận đầy đủ việc thiện chí bồi thường và các lần liên hệ:
- 2.2 2.2. Lập biên bản làm việc với Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát để xác nhận thiện chí:
- 2.3 2.3. Đề nghị cơ quan tố tụng lập biên bản thể hiện việc bị hại từ chối nhận:
- 2.4 2.4. Chuẩn bị hồ sơ nộp tiền bồi thường vào cơ quan có thẩm quyền:
- 2.5 2.5. Lựa chọn phương án nộp vào Cơ quan thi hành án dân sự để chứng minh khắc phục hậu quả:
- 3 3. Trường hợp bị hại cố tình đưa ra yêu cầu vô lý hoặc liên tục thay đổi yêu cầu:
1. Bồi thường nhưng bị hại không nhận thì có được xem là tình tiết giảm nhẹ không?
Theo quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, khi người phạm tội đã chủ động bồi thường nhưng bị hại từ chối nhận, hành vi này vẫn được xem xét là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 1 Điều 51. Cụ thể: “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả.” Đây là tình tiết giảm nhẹ quan trọng, phản ánh sự thiện chí và nỗ lực khắc phục hậu quả của người phạm tội, kể cả khi bị hại không hợp tác.
Nội dung này được hướng dẫn chi tiết tại Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về việc áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự. Theo đó, hành vi tự nguyện bồi thường của bị cáo vẫn được xem là tình tiết giảm nhẹ trong 02 trường hợp sau:
- Thứ nhất, bị cáo (không phân biệt là người đã thành niên hay người chưa thành niên) hoặc cha, mẹ của bị cáo chưa thành niên đã tự nguyện dùng tiền, tài sản để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nhưng người bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối nhận, nếu số tiền, tài sản đó đã được giao cho cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác quản lý để thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra;
- Thứ hai, bị cáo (không phân biệt là người đã thành niên hay người chưa thành niên) hoặc cha, mẹ của bị cáo chưa thành niên xuất trình được chứng cứ chứng minh là họ đã tự nguyện dùng tiền, tài sản để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra nhưng người bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối nhận và họ đã đem số tiền, tài sản đó về nhà cất giữ để sẵn sàng thực hiện việc bồi thường khi có yêu cầu.
Từ các hướng dẫn trên có thể thấy: Việc bị hại từ chối nhận bồi thường không làm mất đi quyền được hưởng tình tiết giảm nhẹ của bị cáo. Người gây thiệt hại hoàn toàn có thể lập đơn và nộp tiền bồi thường cho cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án hoặc chứng minh đã tự nguyện bồi thường nhưng bị hại không nhận và cất giữ tiền để sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ nhằm đảm bảo được xem xét giảm nhẹ hình phạt theo điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.
Bên cạnh đó, trong nhiều vụ án hình sự, hành vi phạm tội gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc các lợi ích hợp pháp khác của bị hại, nên trách nhiệm bồi thường thiệt hại là nghĩa vụ bắt buộc. Trường hợp cần thiết, Tòa án có thể tách phần bồi thường dân sự để giải quyết theo thủ tục dân sự nhằm bảo đảm quyền lợi của người bị hại.
Do đó, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại là nghĩa vụ độc lập và không phụ thuộc vào hình phạt mà Tòa án áp dụng. Ngay cả khi người phạm tội bị tuyên phạt tù chung thân hoặc tử hình, phần nghĩa vụ bồi thường dân sự vẫn phải được thực hiện đầy đủ đối với thiệt hại đã gây ra.
Như vậy: Nếu người phạm tội đã tự nguyện bồi thường nhưng bị hại từ chối nhận, thì hành vi này vẫn được tính là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017. Chỉ cần người phạm tội:
- Nộp tiền hoặc tài sản bồi thường cho cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án hoặc cơ quan có thẩm quyền; hoặc
- Có chứng cứ chứng minh đã tự nguyện bồi thường nhưng bị hại không nhận và đang cất giữ số tiền/tài sản để sẵn sàng bồi thường khi cần.
Thì đều được xem là đã “tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả”.
Do đó, việc bị hại từ chối nhận không làm mất đi quyền được hưởng tình tiết giảm nhẹ của người phạm tội, miễn là họ chứng minh được thiện chí và thực tế đã chủ động bồi thường đúng quy định pháp luật.
2. Cần phải làm gì khi bồi thường nhưng bị hại không nhận?
2.1. Ghi nhận đầy đủ việc thiện chí bồi thường và các lần liên hệ:
Khi người gây thiệt hại đã nhiều lần chủ động liên hệ để bồi thường nhưng bị hại không nhận, việc đầu tiên cần làm là ghi nhận toàn bộ quá trình thể hiện thiện chí. Điều này gồm: Lưu lại các tin nhắn, cuộc gọi, thư mời làm việc hoặc trao đổi qua người thân nhằm chứng minh rằng bị hại được thông báo đầy đủ nhưng cố tình từ chối. Những bằng chứng này có giá trị rất quan trọng trong quá trình điều tra và xét xử bởi theo Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 “tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả” là tình tiết giảm nhẹ quan trọng. Nếu không thể chứng minh quá trình thiện chí, cơ quan tiến hành tố tụng có thể cho rằng người gây thiệt hại không hợp tác hoặc chưa thực sự khắc phục hậu quả.
2.2. Lập biên bản làm việc với Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát để xác nhận thiện chí:
Trong trường hợp đã nhiều lần chủ động liên hệ nhưng bị hại không nhận tiền, người gây thiệt hại hoặc luật sư cần nộp đơn đề nghị cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát tổ chức buổi làm việc để ghi nhận rõ việc bồi thường. Buổi làm việc này cần được lập biên bản đầy đủ, mô tả chi tiết: số tiền bồi thường, cách thức liên hệ với bị hại, thái độ hợp tác của các bên và việc bị hại từ chối nhận. Biên bản này là tài liệu chứng minh mạnh mẽ nhất trước Tòa rằng người gây thiệt hại đã thực hiện nghĩa vụ dân sự theo khả năng và thiện chí, giúp giảm nhẹ đáng kể trách nhiệm hình sự theo Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 và thể hiện tinh thần hợp tác tốt trong suốt quá trình tố tụng.
2.3. Đề nghị cơ quan tố tụng lập biên bản thể hiện việc bị hại từ chối nhận:
Khi bị hại cố tình không nhận tiền hoặc đưa ra những lý do không hợp lý, người gây thiệt hại có quyền yêu cầu cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát lập biên bản xác nhận việc bị hại từ chối nhận bồi thường. Biên bản này cần ghi rõ lý do từ chối (nếu có), thời gian, địa điểm… và số tiền được đề nghị bồi thường. Việc có biên bản này giúp tránh tình trạng bị hại sau đó khai sai sự thật rằng người gây thiệt hại không bồi thường hoặc không thiện chí, đồng thời đây cũng là cơ sở pháp lý để người gây thiệt hại được xem xét tình tiết giảm nhẹ dù bị hại không hợp tác.
2.4. Chuẩn bị hồ sơ nộp tiền bồi thường vào cơ quan có thẩm quyền:
Khi bị hại kiên quyết không nhận, bước tiếp theo là chuẩn bị hồ sơ nộp tiền bồi thường vào cơ quan có thẩm quyền: Gồm đơn trình bày, biên bản làm việc, tài liệu chứng minh thiện chí và số tiền sẽ nộp. Tùy giai đoạn tố tụng, cơ quan có thể là Công an, Viện kiểm sát hoặc Tòa án. Việc nộp tiền theo thủ tục này giúp chấm dứt tình trạng bồi thường dở dang; đồng thời chứng minh rõ ràng rằng người gây thiệt hại đã thực hiện phương án khắc phục hậu quả một cách khách quan, minh bạch và đúng quy định pháp luật.
2.5. Lựa chọn phương án nộp vào Cơ quan thi hành án dân sự để chứng minh khắc phục hậu quả:
Đối với nhiều vụ việc, đặc biệt là các vụ án đã chuyển hồ sơ sang giai đoạn truy tố hoặc chuẩn bị xét xử, người gây thiệt hại có thể nộp thẳng tiền bồi thường vào Cơ quan Thi hành án dân sự. Cơ quan Thi hành án dân sự sẽ tiếp nhận, lập biên bản, cấp biên lai thu tiền và quản lý khoản tiền cho đến khi có bản án hoặc người bị hại đồng ý nhận. Đây là cách thức chắc chắn nhất để chứng minh bị can/bị cáo đã hoàn thành nghĩa vụ bồi thường, tránh việc bị hại tiếp tục từ chối gây bất lợi. Đồng thời, biên lai thu tiền của Cơ quan Thi hành án dân sự là chứng cứ có giá trị trước Tòa, bảo đảm người gây thiệt hại được hưởng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ.
3. Trường hợp bị hại cố tình đưa ra yêu cầu vô lý hoặc liên tục thay đổi yêu cầu:
3.1. Xử lý thế nào khi bị hại kê khai thiệt hại không đúng thực tế:
Trong nhiều vụ án, bị hại có thể kê khai thiệt hại vượt quá giá trị thực tế nhằm gây áp lực hoặc mong muốn nhận mức bồi thường cao hơn. Khi đó, người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án xác minh tính hợp lý của khoản thiệt hại. Việc định giá cần dựa trên chứng cứ như hóa đơn, báo giá, hồ sơ bệnh án, thu nhập bị mất… để bảo đảm tính khách quan. Nếu bị hại kê khai sai, Tòa án sẽ không chấp nhận phần thiệt hại không có căn cứ. Điều này giúp người phạm tội tránh bị buộc bồi thường vượt quá nghĩa vụ và đảm bảo sự công bằng trong giải quyết vụ án.
3.2. Quyền yêu cầu Tòa án xem xét, định giá lại thiệt hại:
Khi có dấu hiệu mức thiệt hại bị kê khai sai lệch hoặc bị hại đưa ra yêu cầu không hợp lý (ví dụ: yêu cầu bồi thường số tiền không tương ứng với mức độ thiệt hại thực tế) thì bị cáo hoặc luật sư có quyền làm đơn yêu cầu định giá lại theo đúng trình tự của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Hội đồng định giá sẽ do cơ quan Nhà nước thành lập, tiến hành thẩm định độc lập để đưa ra kết luận khách quan. Kết luận định giá là căn cứ quan trọng để Tòa án xem xét mức bồi thường phù hợp, đồng thời ngăn chặn trường hợp bị hại nâng khống thiệt hại để gây bất lợi cho bị cáo.
3.3. Quyền yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng xác định mức bồi thường hợp lý:
Trong quá trình điều tra hoặc xét xử, nếu bị hại liên tục thay đổi yêu cầu hoặc yêu cầu vượt quá khả năng chi trả mà không có căn cứ, bị cáo có thể đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng ấn định mức bồi thường hợp lý, phù hợp với thiệt hại thực tế được chứng minh. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án sẽ phân tích chứng cứ và căn cứ vào Điều 584 đến 592 Bộ luật Dân sự 2015 để xác định thiệt hại thực tế. Điều này giúp tránh tình trạng thương lượng không minh bạch, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gây thiệt hại và bảo đảm mức bồi thường phù hợp với pháp luật.
THAM KHẢO THÊM:

Tư vấn pháp luật qua Zalo


