Bào chữa là một trong những quyền cơ bản và quan trọng nhất của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, nhằm bảo đảm họ được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, không bị kết án oan hoặc áp dụng hình phạt trái pháp luật. Vậy bào chữa được hiểu như thế nào và quyền bào chữa trong tố tụng hình sự được pháp luật quy định ra sao? Bài viết dưới đây sẽ giúp làm rõ những nội dung này.
Mục lục bài viết
1. Bào chữa là gì?
1.1. Khái niệm về bào chữa:
“Bào chữa” được hiểu là việc sử dụng lý lẽ, chứng cứ, tài liệu hợp pháp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Đây là quyền hiến định của người bị buộc tội, được ghi nhận nhằm bảo đảm tính công bằng, khách quan và tránh oan sai trong tố tụng hình sự.
Quyền bào chữa bao gồm nhiều nội dung quan trọng như: Quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật; quyền trình bày ý kiến, lý lẽ; quyền đặt câu hỏi; quyền tranh luận tại phiên tòa; quyền khiếu nại các quyết định, hành vi tố tụng không đúng pháp luật… Quyền này được thực hiện trong suốt cả giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử.
Bị can, bị cáo có thể tự mình bào chữa, nhờ người bào chữa, hoặc thuê luật sư tham gia bào chữa để bảo vệ quyền lợi tốt nhất cho mình. Các cơ quan tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án có trách nhiệm bảo đảm để bị can, bị cáo được thực hiện đầy đủ, hiệu quả quyền bào chữa theo đúng quy định pháp luật.
1.2. Mục đích của hoạt động bào chữa:
Mục đích cốt lõi của bào chữa là bảo vệ quyền con người và quyền công dân của người bị buộc tội. Bào chữa giúp:
- Ngăn ngừa việc kết án oan người vô tội;
- Bảo đảm người phạm tội chỉ bị kết án dựa trên chứng cứ hợp pháp và quy trình tố tụng đúng luật;
- Giảm thiểu các biện pháp tố tụng xâm phạm quyền tự do cá nhân không cần thiết;
- Bảo đảm sự bình đẳng giữa các bên trong tố tụng và góp phần nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên Tòa án.
Như vậy, bào chữa không chỉ là quyền của người bị buộc tội mà còn là một cơ chế bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và bảo đảm tính liêm chính của hoạt động tư pháp.
1.3. Vai trò của bào chữa trong bảo đảm quyền con người và quyền công dân:
Bào chữa có vai trò quyết định trong việc bảo đảm các quyền cơ bản của người bị buộc tội. Thông qua hoạt động bào chữa:
- người bị buộc tội được bảo đảm quyền được suy đoán vô tội theo Hiến pháp và Bộ luật Tố tụng hình sự;
- mọi biện pháp tố tụng có khả năng xâm phạm quyền con người đều được kiểm soát chặt chẽ bởi sự tham gia của người bào chữa;
- bảo đảm quyền tiếp cận công lý, quyền được trình bày ý kiến và tranh luận bình đẳng với bên buộc tội;
- góp phần hạn chế các sai sót hoặc vi phạm trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
Nói cách khác, bào chữa là “lá chắn pháp lý” quan trọng giúp cân bằng quyền lực giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và người bị buộc tội. Từ đó bảo đảm quá trình tố tụng hình sự được thực hiện công khai, minh bạch và đúng quy định của pháp luật.
2. Quyền bào chữa trong Tố tụng hình sự được quy định thế nào?
2.1. Đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội:
Căn cứ theo quy định tại Điều 16 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự như sau:
- Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự;
- Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa;
- Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Theo quy định pháp luật, người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư bào chữa hoặc nhờ người khác đủ điều kiện theo luật tham gia bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong suốt quá trình tố tụng.
Cùng với quyền này, các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có nghĩa vụ thông báo, giải thích và bảo đảm để người bị buộc tội, người bị hại và các đương sự khác được thực hiện đầy đủ quyền bào chữa cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điều này nhằm bảo đảm tính công bằng, minh bạch và bảo vệ quyền con người trong mọi giai đoạn tố tụng hình sự.
2.2. Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt có quyền được bào chữa không?
Theo điểm đ khoản 1 Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, người bị buộc tội bao gồm: Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can và bị cáo. Đây là các chủ thể chính trong tố tụng hình sự và đều có quyền tự mình bào chữa hoặc nhờ người bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Như vậy, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can và bị cáo đều được pháp luật bảo đảm quyền tự bào chữa, nhờ luật sư bào chữa hoặc nhờ người khác đủ điều kiện theo luật tham gia bào chữa.
Tuy nhiên, pháp luật hiện nay không chỉ giới hạn quyền bào chữa đối với người bị buộc tội. Đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, mặc dù chưa bị coi là người bị buộc tội nhưng Bộ luật Tố tụng hình sự vẫn ghi nhận và bảo đảm quyền tự bào chữa và quyền nhờ người bào chữa. Điều này nhằm bảo đảm rằng mọi biện pháp bắt giữ, tước tự do đều phải được kiểm soát chặt chẽ, đồng thời bảo vệ quyền con người ngay từ giai đoạn sớm nhất của tố tụng hình sự.
Cụ thể theo điểm g khoản 1 Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp như sau:
(1) Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết định truy nã có quyền:
+ Được nghe, nhận lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định truy nã;
+ Được biết lý do mình bị giữ, bị bắt;
+ Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;
+ Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
+ Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
+ Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá;
+ Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
+ Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người.
(2) Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt có nghĩa vụ chấp hành lệnh giữ người, lệnh bắt người và yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền giữ người, bắt người theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.
Như vậy, ngoài người bị buộc tội thì người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt cũng có quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa.
2.3. Có được thay đổi người bào chữa trong tố tụng hình sự hay không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 77 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 về thay đổi hoặc từ chối người bào chữa như sau:
- Những người sau đây có quyền từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa: Người bị buộc tội; người đại diện của người bị buộc tội; người thân thích của người bị buộc tội. Mọi trường hợp thay đổi hoặc từ chối người bào chữa đều phải có sự đồng ý của người bị buộc tội và được lập biên bản đưa vào hồ sơ vụ án, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.
- Trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong giai đoạn điều tra có đề nghị từ chối người bào chữa do người thân thích của họ nhờ thì Điều tra viên phải cùng người bào chữa đó trực tiếp gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam để xác nhận việc từ chối.
- Trường hợp chỉ định người bào chữa quy định tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, người bị buộc tội và người đại diện hoặc người thân thích của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa. Trường hợp thay đổi người bào chữa thì việc chỉ định người bào chữa khác được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.
- Trường hợp từ chối người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng lập biên bản về việc từ chối người bào chữa của người bị buộc tội hoặc người đại diện, người thân thích của người bị buộc tội quy định tại điểm b khoản 1 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 và chấm dứt việc chỉ định người bào chữa.
Và theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 về chỉ định người bào chữa như sau:
(1) Trong các trường hợp sau đây nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ: a) Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình; b) Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi.
(2) Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải yêu cầu hoặc đề nghị các tổ chức sau đây cử người bào chữa cho các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này:
- Đoàn luật sư phân công tổ chức hành nghề luật sư cử người bào chữa;
- Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước cử Trợ giúp viên pháp lý, luật sư bào chữa cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lý;
- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận cử bào chữa viên nhân dân bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình.
Như vậy, người bị buộc tội là chủ thể có quyền quyết định việc từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Đây là quyền gắn liền với việc bảo đảm sự tự do ý chí và quyền lựa chọn người bảo vệ tốt nhất cho mình.
Mọi trường hợp thay đổi hoặc từ chối người bào chữa đều phải có sự đồng ý rõ ràng của người bị buộc tội và phải được lập biên bản, đưa vào hồ sơ vụ án để bảo đảm tính minh bạch và hợp pháp, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, nơi pháp luật cho phép thay đổi người bào chữa mà không cần sự đồng ý của người bị buộc tội nhằm bảo đảm yêu cầu tố tụng đặc biệt.
2.4. Thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa:
Tại Điều 74 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng như sau:
- Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can;
- Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ;
- Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
Như vậy, không phải trong mọi trường hợp người bào chữa đều được tham gia tố tụng ngay từ thời điểm khởi tố bị can. Pháp luật quy định một số ngoại lệ, theo đó thời điểm người bào chữa được tham gia tố tụng có sự thay đổi tùy từng trường hợp cụ thể, gồm:
+ Đối với trường hợp bắt hoặc tạm giữ người: Người bào chữa được tham gia tố tụng ngay từ khi người bị bắt được đưa đến trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ. Quy định này nhằm bảo đảm quyền bào chữa sớm, kịp thời, hạn chế các tình huống ép cung, mớm cung hoặc vi phạm thủ tục khi lấy lời khai ban đầu.
+ Đối với trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia: Người bào chữa chỉ được tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra, theo quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền. Đây là ngoại lệ nhằm phục vụ yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia nhưng vẫn bảo đảm người bị buộc tội được thực hiện quyền bào chữa ở giai đoạn phù hợp.
3. Ý nghĩa của việc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự:
Quyền bào chữa không chỉ là quyền của người bị buộc tội mà còn là một trong những cơ chế kiểm soát quyền lực tư pháp quan trọng nhất trong tố tụng hình sự. Việc bảo đảm đầy đủ, thực chất quyền bào chữa mang lại nhiều ý nghĩa lớn đối với cá nhân, cơ quan tiến hành tố tụng và toàn bộ hệ thống pháp luật.
3.1. Bảo đảm tính khách quan, công bằng trong tố tụng:
Quyền bào chữa giúp bảo đảm rằng quá trình giải quyết vụ án hình sự được xem xét dựa trên 02 phía tranh tụng: Bên buộc tội và bên gỡ tội.
Khi người bị buộc tội hoặc người bào chữa được trình bày luận cứ, đối đáp, thu thập và cung cấp chứng cứ thì Tòa án sẽ có cái nhìn đa chiều hơn, tránh tình trạng một chiều theo quan điểm của cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát.
Theo đó, bản án hình sự được đưa ra dựa trên chứng cứ hợp pháp, luận cứ được kiểm chứng và tranh luận công khai, bảo đảm nguyên tắc trọng chứng hơn trọng cung và tính khách quan, minh bạch của hoạt động xét xử.
3.2. Ngăn ngừa oan sai và bảo vệ quyền con người:
Một trong những giá trị quan trọng nhất của quyền bào chữa là ngăn ngừa kết án oan người vô tội. Thông qua hoạt động bào chữa:
- Lời khai hoặc chứng cứ thu thập trái pháp luật có thể bị phát hiện và loại khỏi hồ sơ;
- Các sai phạm tố tụng của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thể được khiếu nại và khắc phục kịp thời;
- Các dấu hiệu ép cung, bức cung, nhục hình, mớm cung, vi phạm quyền im lặng có thể bị phản ánh và xử lý.
Nhờ đó, quyền con người được bảo vệ tốt hơn, đặc biệt là các quyền cơ bản như quyền tự do thân thể, quyền được suy đoán vô tội và quyền được xét xử công bằng.
3.3. Tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm của cơ quan tố tụng:
Khi quyền bào chữa được bảo đảm đúng mức, các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ chịu sự giám sát khách quan và liên tục từ phía người bào chữa, Luật sư và đại diện hợp pháp của người bị buộc tội. Điều này buộc:
- Cơ quan điều tra phải tuân thủ nghiêm ngặt quy định về thu thập chứng cứ;
- Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ hồ sơ và tránh truy tố thiếu căn cứ;
- Tòa án phải đưa ra bản án dựa trên tranh tụng công khai, không suy diễn hoặc áp đặt.
Quyền bào chữa vì vậy góp phần nâng cao chất lượng điều tra, truy tố và xét xử; cũng như tăng tính thuyết phục và sự tôn trọng của xã hội đối với phán quyết của Tòa án.
THAM KHẢO THÊM:

Tư vấn pháp luật qua Zalo


