Hào khí Đông A thể hiện ở tỉnh thần yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm chiến thắng kẻ thù, bảo vệ bờ cõi đất nước; điểm đặc biệt của hào khi Đông A đó là sự đoàn kết, tinh thần trên dưới một lòng của vua, tướng, binh sĩ, quân dân nhà Trần. Bài viết dưới đây sẽ cung cấp cho độc giả bài viết Hào khí Đông A được thể hiện như thế nào trong Hịch tướng sĩ.
Mục lục bài viết
- 1 1. Hào khí Đông A là gì?
- 2 2. Bối cảnh lịch sử đằng sau câu nói Hào khí Đông A thời Trần:
- 3 3. Hịch tướng sĩ là dòng văn chương chảy trong máu Lạc Hồng:
- 4 4. Hịch tướng sĩ soi chiếu những tấm gương mà sử sách lưu danh:
- 5 5. Tội ác của giặc bị phơi bày dưới ngòi bút đầy bản lĩnh của Trần Quốc Tuấn:
- 6 6. Hịch tướng sĩ nổi bật bởi tấm lòng cao cả của vị tướng quân:
- 7 7. Sự khéo léo của bậc tướng tài khi dùng mối thân tình khích lệ quân sĩ:
- 8 8. Bức tâm thư nêu cao chủ nghĩa yêu nước thời đại chống quân Mông Nguyên:
1. Hào khí Đông A là gì?
Trên thực tế, chúng ta có thể hiểu “hào khí Đông A” chính là hào khí nhà Trần. Nhưng có câu nói đó là xuất phát từ 2 lý do! Đầu tiên, theo lối chiết tự, chữ Trần được ghép từ chữ Đông và chữ A nên có thể đọc là Đông A! Nhưng để hiểu được cụ thể, chúng ta phải kể đến lý do thứ 2! Theo đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu cũng như khách quan lịch sử, nhà Trần là triều đại phong kiến đầu tiên của lịch sử Việt Nam có thể tạo được sự đồng tâm, nhất chí tối cao từ trên xuống dưới, từ quân đến dân, từ già đến trẻ hay từ trai đến gái. Lần đầu tiên, tất cả con dân Đại Việt đồng lòng vì nghĩa lớn, với tinh thần quyết tử để chống giặc ngoại xâm! Lúc bấy giờ đứng trước kẻ địch cường mãnh nhất thế giới, nhưng Đại Việt vẫn thể hiện được tinh thần tự lập tự cường, lòng yêu nước vô hạn.
Tuy nhiên, hào khí đông A không chỉ nói về hào khí nhà Trần mà còn là hào khí của lịch sử chống giặc ngoại xâm nói chung.
Biểu hiện của hào khí Đông A là tinh thần tự lập, tự cường, lòng yêu nước, khát vọng lập công giúp nước; ý chí quyết chiến, quyết thắng mọi kẻ thù.
2. Bối cảnh lịch sử đằng sau câu nói Hào khí Đông A thời Trần:
Trong những năm tháng cuối cùng của triều đại nhà Lý, hoàng đế thứ tám của triều đại nhà Lý là Lý Huệ Tông do không có con trai nên đã quyết định lập Lý Chiêu Hoàng lên làm thái tử và truyền ngôi hoàng đế. Đây cũng là nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, bà chỉ ngồi trên ngai vàng khoảng 2 năm rồi nhường ngôi lại cho họ Trần.
Trần Cảnh sau đó chính là Trần Thái Tông, dưới sự bố trí của thái sư Trần Thủ Độ đã trở thành vị hoàng đế đầu tiên của nhà Trần, mở ra một thời kỳ mới oai hùng trong lịch sử Đại Việt. Có thể nói rằng, đây là 1 trong các triều đại mạnh mẽ và có sự phát triển bùng cháy nhất trong lịch sử phong kiến của Việt Nam.
Trong suốt 175 năm trị vì, nhà Trần đã có những thành công tuyệt vời về văn hóa truyền thống, tôn giáo như về mặt quân sự nhưng điểm sáng lớn nhất chính là việc chỉ huy nhân dân đánh bại quân xâm lược Nguyên Mông tới 3 lần vào các năm lần lượt 1258, 1285, 1288). Và cũng chính từ đây, câu nói “Hào khí Đông A” đã được ra đời!
3. Hịch tướng sĩ là dòng văn chương chảy trong máu Lạc Hồng:
Tại Hội nghị quân sự Bình Than, Trần Quốc Tuấn được vua trao trọng trách làm Quốc công tiết chế. Đoán trước quyết tâm phục thù của quân Nguyên, ông chủ động mở cuộc duyệt binh lớn ở Đông Thăng Long và công bố bài Hịch tướng sĩ (Dụ chư tỳ tướng hịch văn)
Hịch tướng sĩ, một bài viết của Trần Quốc Tuấn vào năm 1282, đã trở thành một tác phẩm quân sự nổi tiếng trong lịch sử dân tộc. Thể loại văn này không tuân theo bất kỳ công thức nào và thường sử dụng văn xuôi hoặc văn bản ngẫu kết hợp với những lý lẽ xác đáng để chinh phục lòng yêu nước của quần chúng.
Trong văn học, thể loại này được ít người sáng tác, và Hịch tướng sĩ được coi là một ví dụ điển hình cho chủ nghĩa yêu nước cao cả trong thời kỳ đấu tranh chống lại quân Nguyên. Nó có thể được coi như một khúc tráng ca anh hùng đầy cảm xúc và ý chí kiên cường của Hào khí Đông A.
Vì Hịch tướng sĩ toả sáng khí khái anh hùng của dân tộc Đại Việt trong thời kỳ nhà Trần. Mục tiêu của bài viết là khích lệ tinh thần yêu nước và ý chí chiến đấu của ba quân, đồng lòng cống hiến để chống lại cuộc xâm lược của quân địch.
Ngoài ra, nó cũng kêu gọi các tướng sĩ phải cao cảnh giác, rèn luyện võ nghệ và học tập Binh gia diệu lý yếu lược, một tài liệu quân sự được biên soạn để chuẩn bị cho cuộc chiến chống lại cuộc xâm lược của quân Nguyên lần thứ hai.
Hịch tướng sĩ là áng văn cổ có giá trị lịch sử quan trọng hàm chứa tình cảm yêu nước và sáng ngời khí phách anh hùng, đồng thời mang tính nghệ thuật độc đáo, xứng tầm kiệt tác nền văn học trung đại thời Lý Trần.
Đây là giọng điệu hùng tráng, nhiệt huyết của Bình Bắc đại nguyên soái, tràn đầy ý chí quyết chiến và mong muốn thúc đẩy sự thịnh vượng cho quê hương. Tuy nhiên, cũng mang trong mình một sự buồn bã, căm hận và khát khao cho một đất nước yên bình và phồn thịnh, những giá trị nhân văn đã làm nên tác phẩm này.
Ở nhiều khía cạnh khác nhau, tác giả đã biểu lộ những phẩm chất anh hùng cao cả và oai phong lẫm liệt. Vì vậy, trong bài Hịch tướng sĩ đã dâng trào máu nóng, dòng chữ của văn chương tuôn ra từ đó.
Bằng ngòi bút tài ba của mình, người lãnh đạo hàng đầu của Đại Việt đã tiết lộ âm mưu xâm lược và tội ác của quân Nguyên Mông, để thể hiện lòng căm thù sâu sắc với kẻ thù và ca tụng tinh thần quyết chiến cao cả. Người ta đã sẵn lòng hy sinh cuộc sống trên chiến trường để bảo vệ gia đình và chính quyền nhà Trần.
4. Hịch tướng sĩ soi chiếu những tấm gương mà sử sách lưu danh:
Mở đầu bài hịch, Trần Quốc Tuấn đã nêu ra những tấm gương về trung quân ái quốc đã được lưu danh trong sử sách nhằm khích lệ tinh thần của những người chiến sĩ.
Đó là Kỷ Tín một lòng phò trợ tướng lĩnh, khi bị bao vây đã đóng giả làm chủ tử, nhờ đó Lưu Bang có thể trốn thoát hay tướng Do Vu đã xả thân, chìa lưng ra đỡ cho Chiêu Vương trong lúc bọn cướp lấy giáo đâm.
Trần Quốc Tuấn có nhắc đến Dự Nhượng, một thích khách nước Tấn đời Chiến Quốc nổi tiếng là người nghĩa sĩ. Sẵn sàng nuốt than hồng để thay đổi giọng nói, ngay cả thí thân cũng không quản ngại chỉ để trả thù cho chủ.
Ngoài ra còn nhiều tấm gương lịch sử khác được kể đến như Thân Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh hay là tướng lĩnh cuối đời Nam Tống, Vương Công Kiên đã lãnh đạo đội quân nhỏ nhưng khiến Mông Cổ phải rút lui.
Cốt Đãi Ngột Lang là chỉ huy thời nhà Nguyên, ông xông pha nghìn trùng đánh bại quân Năm Chiếu. Họ đều là những bậc trung thần nghĩa sĩ mang hình mẫu lý tưởng của chế độ phong kiến, sẵn sàng hi sinh bản thân vì nước, vì chủ.
Trần Quốc Tuấn cho rằng đời nào cũng sẽ xuất hiện những bậc anh hùng hào kiệt sẵn sàng xả thân vì vận mệnh đất nước. Việc nhắc lại chân lý đó nhằm tác động tới nhận thức của các tướng sĩ.
5. Tội ác của giặc bị phơi bày dưới ngòi bút đầy bản lĩnh của Trần Quốc Tuấn:
Năm 1258, Mông Cổ cho quân xâm chiếm nước ta lần thứ nhất, tuy nhiên bị đánh bại thảm hại. Đến cuộc xâm lược lần hai năm 1285, trong suốt hai mươi bảy năm đó đất nước không ngày nào được thái bình.
Không chỉ Hưng Đạo Vương mà triều đình nhà Trần ai cũng thấy rõ sự tham lam, dã tâm của quân phương Bắc luôn ấp ủ âm mưu thôn tính Đại Việt. Sinh sống và lớn lên trong thời buổi đất nước loạn lạc, ông luôn có những trăn trở, tâm tư trước sự ngang tàng, hống hách của giặc.
Trần Quốc Tuấn chia sẻ tâm tư về việc “sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan”, điều đó không chỉ riêng bản thân ông mà ngay cả các tướng sĩ đều đã và đang trải qua cùng nhau.
Như vậy, cương vị của mỗi người khác nhau nhưng nếu đất nước lâm nguy, độc lập dân tộc bị đe doạ, thậm chí là mất nước thì tất cả mọi người, dù địa vị cao hay thấp cũng sẽ cùng nhau chịu chung một nỗi nhục, nỗi đau.
Với giọng điệu xót xa, chứa đầy căm phẫn, hận thù, Trần Quốc Tuấn đã tái hiện thực trạng đau lòng đang diễn ra ở nước ta, khi bờ cõi Đại Việt đầy dấu chân vó ngựa của quân Mông Nguyên.
Ông đã sắp xếp lại toàn bộ sự việc và tả nét một cách sinh động về bọn thù địch nhà Nguyên với những hành động tàn ác, tàn nhẫn. Dưới ngòi bút uyên bác và có trình độ, vị tướng của nhà Trần đã biến chúng thành những con vật để phác họa chân dung và bản chất của chúng.
Hình ảnh của chúng hiện lên không chỉ thể hiện sự hèn hạ và tàn ác, mà còn làm mất đi tính người. Ông gọi chúng là”lưỡi cú diều”,”thân dê chó”,”hổ đói”để tiết lộ cả tính tham lam và tính quỷ quyệt của kẻ giặc, đồng thời cũng truyền tải sự khinh miệt và căm tức một cách tột cùng.
Với dòng văn tràn đầy nỗi phẫn uất, Hưng Đạo Vương đã biểu lộ sự đau buồn và xót xa trước sự nhục nhã của quốc gia khi kẻ thù phỉ báng triều đình, phá hoại đất nước và khiến cho người dân phải gánh chịu cuộc sống đau khổ.
6. Hịch tướng sĩ nổi bật bởi tấm lòng cao cả của vị tướng quân:
Nếu cả bài Hịch tướng sĩ nổi bật với hình tượng cái tôi trữ tình yêu nước của chủ soái Trần Quốc Tuấn thì đoạn trích sau đây chính là phần tiêu biểu phản ánh tình cảm cao đẹp, khí thế hùng tráng, thể hiện một phong thái tuyệt vời với hào khí Đông A.
“Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.” – Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn)
Với tình hình đất nước rơi vào thảm kịch như hiện tại, tác giả vô cùng trăn trở, thương xót mà đứng ngồi không yên. Quân giặc tàn phá quê hương, dân chúng rơi vào cảnh lầm than khiến cảm xúc của ông có sự chuyển biến mạnh mẽ.
Đoạn văn đã tô đậm trạng sục sôi chất chứa trong trái tim vĩ đại luôn lắng lo cho vận mệnh đất nước. Tất cả trạng thái cảm xúc ấy dâng trào đến cực điểm khiến Hưng Đạo Vương băn khoăn đến mức quên ăn, mất ngủ, xót xa như đứt từng khúc ruột.
Sự phát triển tâm lý nhân vật trong bài hịch hoàn toàn phù hợp với chuyển biến tâm tư tình cảm của người anh hùng. Nỗi niềm ấy được chuyển hóa, nâng lên thành sự uất hận ngàn thâu, đau đáu trong lòng kẻ sĩ khi chưa rửa nhục cho tổ quốc, quyết không đội trời chung với giặc khi “xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù”.
Sự đau xót khôn nguôi khi đứng trước cảnh “nước mất nhà tan”, nhân dân rơi vào tình cảnh khốn khổ cùng lòng căm thù cháy bỏng là đòn bẩy thúc đẩy ý chí của Hưng Đạo Vương hành động dứt khoát, giết giặc cứu nước, hy sinh thân mình chứ không bao giờ lùi bước, cúi đầu trước quân thù.
Qua đó, độc giả có thể cảm nhận tình yêu nước nồng nàn, mặt khác còn thấy được sự căm phẫn lũ giặc ngoại xâm và khao khát tiêu diệt bọn chúng, mặc cho bản thân có hy sinh thì vẫn vui lòng.
7. Sự khéo léo của bậc tướng tài khi dùng mối thân tình khích lệ quân sĩ:
Không chỉ là một vị tướng tài ba, giàu lòng yêu nước, thương dân mà ông còn rất yêu thương và tôn trọng binh sĩ. Với giọng văn chất chứa tâm tư, tác giả đã khéo léo gợi nhắc những ân tình của một vị chủ soái với nghĩa quân của mình.
Ông xem họ như huynh đệ đồng cam cộng khổ, cuộc sống tuy vất vả nhưng không có khoảng cách chủ tớ, tình sâu nghĩa nặng hơn nữa khi họ từng vào sinh ra tử cùng nhau trên trận mạc với lý tưởng thiêng liêng vì đất nước.
“Không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Đi thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười.” – Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn)
Trần Quốc Tuấn đã khéo léo gợi nhắc đến mối ân tình giữa chủ và tướng nhằm khích lệ ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ mỗi người. Điều đó được ông ví như Vương Công Kiên, Cốt Đãi Ngột Lang ngày trước.
Thế nhưng, trong lúc dân chúng lầm than đau khổ, quân sĩ lại mặc lòng, vô tư chiều theo đời sống của mình. Ông đã thẳng thắn chỉ ra những biểu hiện sai lầm của tướng sĩ chẳng hạn như khi đất nước lâm nguy mà chỉ biết hưởng thụ cá nhân ích kỉ, trốn tránh trách nhiệm, ham săn bắn, mê tửu sắc.
Trần Quốc Tuấn đưa ra những lí lẽ để phân tích phải trái, đúng sai để binh lính tự giác ngộ bản thân mình. Hành động này xuất phát từ ý chí quyết tâm đánh đuổi kẻ thù xâm lược, bộc lộ tâm trạng băn khoăn của chủ soái trước tình trạng tướng sĩ không chút mảy may quan tâm đến vận mệnh đất nước.
Để từ đó, ông vẽ ra viễn cảnh thảm hại khi các tướng sĩ giữ thái độ và hành động vô trách nhiệm với vận mệnh của đất nước thì sẽ mất đi tài sản đất đai, gia đình tan tác chia lìa, tính mạng có thể không giữ được mà thanh danh còn ô uế đến muôn đời.
Những lời giáo huấn của Hưng Đạo Vương có ý nghĩa rất sâu sắc, góp phần đánh thức những binh lính đang lạc lối và lầm đường trở lại con đường đúng đắn, đồng thời rèn luyện ý thức về trách nhiệm đối với nền độc lập dân tộc.
Sau đó, ông cũng đưa ra chỉ dẫn để thay đổi tình thế bằng cách trau dồi binh thư qua việc đọc Binh thư yếu lược, tích cực tập luyện “tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ”.
Qua đó mới có thể hoàn thiện nhiệm vụ của một người quân tử, bảo vệ lãnh thổ và mang lại lợi ích cho gia tộc, truyền danh tiếng trường tồn qua hàng đời. Tác giả đã chỉ ra hai phương pháp đối ngược nhau để nâng cao ý chí tự giác, sẵn sàng chiến đấu và hi sinh vì sự tốt đẹp của Tổ quốc.
Hịch tướng sĩ không chỉ là một lời tuyên bố mạnh mẽ chống lại kẻ thù, mà còn là một khẳng định kiên quyết về không bao giờ chịu khuất phục hay thoả hiệp trong cuộc chiến. Điều này thể hiện lòng quyết tâm thép và tinh thần chiến đấu gan dạ của Trần Quốc Tuấn – người tướng võ xuất sắc.
8. Bức tâm thư nêu cao chủ nghĩa yêu nước thời đại chống quân Mông Nguyên:
Hịch tướng sĩ là tác phẩm nêu bật lên hào khí Đông A, điều đó được thể hiện qua thái độ căm thù giặc, quan niệm mạnh mẽ về sự sống và cái chết có liên đới đến kiếp nô lệ hoặc tự do. Ở bất cứ góc độ nào, Hưng Đạo Vương cũng bộc lộ chí khí anh hùng lẫm liệt.
Chính sự khích lệ đi cùng với những lí luận sắc bén, Hịch tướng sĩ đã thúc đẩy ba quân bùng nổ khí thế và tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Từ đó, chuyển biến thành sức mạnh Sát Thát đạt đến những thắng lợi, chiến công lừng lẫy sử Việt.
“Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù.” – Trần Quang Khải
Hịch tướng sĩ nổi danh với những công lao đáng kính như Chương Dương, Hàm Tử và Bạch Đằng, điều này đã chắp vá vững chắc tên tuổi của vị tướng tài ba Trần Quốc Tuấn. Tác phẩm của ông là một khúc ca hùng tráng về cuộc chiến chống lại quân thù, đại diện cho sự dũng cảm và lòng tự hào của quốc gia Đại Việt và con người Việt Nam.
Như không đủ, Hịch tướng sĩ còn được biết đến như một bức thư tràn đầy ý nghĩa anh hùng từ một lãnh tụ kiệt xuất. Bên cạnh đó, ông còn nhấn mạnh chủ nghĩa yêu nước toàn dân trong bối cảnh khốc liệt của cuộc chiến chống lại quân Mông Nguyên.
Trong thế kỷ XII và XIII, hàng tá quốc gia và hàng trăm thành trì từ Hoa Bắc cho đến Hoa Nam, Trung Á và sông Volga đã phải gánh chịu cuộc xâm lược hung bạo từ quân Mông Cổ.
Vậy mà cả ba lần quân Mông Nguyên tràn sang xâm lược nước ta đều bị đánh bại, buộc phải tháo chạy. Bởi lẽ, khối đại đoàn kết dân tộc luôn bền vững, tinh thần yêu nước của quân dân Đại Việt là bất diệt.
Bên cạnh tác phẩm Hịch tướng sĩ, các danh tướng thời Trần còn có một số anh hùng đồng thời là những nhà văn tài ba như Trần Quang Khải, Trần Thánh Tông, và Trần Nhân Tông. Những bài thơ của họ luôn tràn đầy niềm tự hào dân tộc.
Đa số các nhà nghiên cứu văn học cho rằng Hịch tướng sĩ là một lực lượng mạnh mẽ, là ngọn lửa bùng cháy rực rỡ đúng lúc và khơi dậy những biểu hiện cần thiết để biến đổi ý chí của dân tộc. Tác phẩm này đã mở ra một giai đoạn quan trọng trong lịch sử Việt Nam thế kỷ XIII.
Mặc dù đã trôi qua hơn 800 năm, Hịch tướng sĩ vẫn được coi là bản văn chính luận không thể thiếu theo thời gian. Nó mang trong mình cái duyên của thời kỳ anh hùng, nhiệt huyết phồn hoa và quyền uy vô song; điều này khiến cho nó mãi mãi sống mãnh liệt và toả sáng giữa muôn vàn binh sĩ anh hùng.