Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế là sự cạnh tranh khốc liệt để vươn lên các doanh nghiệp, luôn cố gắng giành sự quan tâm của khách hàng bằng việc chiếm ưu thế về thị phần trên thị trường liên quan. Cùng bài viết tìm hiểu về quy định về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền.
Mục lục bài viết
1. Vị trí thống lĩnh thị trường là gì?
+ Theo quy định của
+ Vị trí thống lĩnh thị trường là vị trí của doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp trên thị trường liên quan mà nhờ vào vị trí đó, doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có khả năng quyết định các điều kiện giao dịch trên thị trường độc lập với các đối thủ cạnh tranh và người tiêu dùng ở mức độ đáng kể.
+ Vị trí thống lĩnh thị trường được xác định dựa trên thị phần hoặc khả năng gây hạn chế cạnh tranh của một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp.Doanh nghiệp có sức mạnh thị trường đáng kể được xác định theo quy định tại Điều 26 của Luật này hoặc có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan. Nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu cùng hành động gây tác động hạn chế cạnh tranh và có sức mạnh thị trường đáng kể được xác định theo quy định tại Điều 26 của Luật này hoặc có tổng thị phần thuộc một trong các trường hợp sau đây: hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan; ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên trên thị trường liên quan, bốn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên trên thị trường liên quan; năm doanh nghiệp trở lên có tổng thị phần từ 85% trở lên trên thị trường liên quan.
+ Doanh nghiệp có vụ trí độc quyền được hiểu là trường hợp nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên quan thì doanh nghiệp đó được coi là có vị trí độc quyền.
2. Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền:
Theo quy định của Luật canh tranh 2018 Doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thực hiện hành vi sau đây:
– Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ đối thủ cạnh tranh. Đây là hành vi doanh nghiệp bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá thành thực để nhằm mục đích thu hút khách hàng, gây khó khăn cho những doanh nghiệp kinh doanh cùng mặt hàng hoặc cung ứng cùng một loại dịch vụ
– Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng. Với hành vi này, khách hàng là những người bị chịu nhiều thiệt hại bởi giá mà họ phải mua quá cao so với giá trị thực tế của sản phẩm hoặc phải bán hàng hóa với giá thấp hơn giá thành thực. Giá mua, bán sản phẩm trên thị trường không được hình thành từ cạnh tranh mà do doanh nghiệp thống lĩnh ấn định. Mức chênh lệch giữa giá được ấn định với giá cạnh tranh là khoản lợi ích độc quyền mà doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hay vị trí độc quyền có được
– Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng.
– Áp dụng điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch tương tự dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác. Đây được xem là hành vi phân biệt đối xử thương mại, doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh đã áp dụng cá điều kiện mua, bán, giá cả, thời hạn thanh toán, số lượng khác nhau trong những giao dịch như nhau tạo nên sự bất bình đẳng giữa các khách hàng
– Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác trong ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc yêu cầu doanh nghiệp khác, khách hàng chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác;
– Ngăn cản việc tham gia hoặc mở rộng thị trường của doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp tạo ra rào cản về giá hoặc về nguồn tiêu thụ, nguồn nguyên vật liệu trên thị trường liên quan
– Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm theo quy định của luật khác.
Về các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền theo quy định của luật trước hết là các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường được trình bày trên. Ngoài ra luật quy định còn cấm các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền như
– Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng. Tức doanh nghiệp độc quyền có thể tự áp đặt trong hợp đồng các điều kiện bất lợi cho khách, gây khó khăn cho khách hàng trong quá trình thực hiện hợp đồng
– Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đang giao kết mà không có lý do chính đáng
3. Đặc điểm của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và vị trí độc quyền:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi là doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường:
Sở dĩ hình thành nên quá trình cạnh tranh là do các doanh nghiệp có được vị trí thống lĩnh sau một thời gia dài tồn tại trên thị trường, sản phẩm của họ đã thu hút, tạo được uy tín với khách hàng và doanh nghiệp đã phát triển vượt trội so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan bằng chính các hoạt động kinh doanh sản xuất của mình.
Còn đối với các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh dựa vào sự bảo hộ của quyền lực nhà nước, chính sự ưu ái của các cơ quan quản lý nhà nước thông qua những “ưu đãi đặc biệt” so với các doanh nghiệp khác trên thị trường, những quyền lợi mà các doanh nghiệp này được hưởng trong khi các doanh nghiệp khác thì không đã giúp cho các doanh nghiệp được ưu ái đạt được vị trí thống lĩnh thị trường chứ không hoàn toàn do họ có năng lực cạnh tranh hơn các đối thủ.
Nhưng dù có hình thành bằng con đường nào, một khi đã có vị trí thống lĩnh là doanh nghiệp đã có lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp và có khả năng chủ động trong mối quan hệ với khách hàng. Những lợi thế này có thể là khả năng kiểm soát các yếu tố của thị trường (nguyên liệu đầu vào, giá cả…) hoặc có sức ảnh hưởng đến khách hàng, các doanh nghiệp khác trên thị trường. Đôi khi doanh nghiệp đã lợi dụng những lợi thế này để áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng và các doanh nghiệp khác nhằm củng cố vị trí thống lĩnh, tăng lợi nhuận.
Thứ hai, hành vi của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh đã hoặc đang thực hiện các hành vi hạn chế cạnh tranh được quy định hoặc mô tả trong pháp
Các hành vi hạn chế cạnh tranh mà các doanh nghiệp thường thực hiện là các hành vi bóc lột khách hàng, chèn ép đối thủ, ngăn cản sự gia nhập thị trường của các đối thủ tiềm năng nhằm thu được nhiều lợi nhuận, giữ vị trí thống lĩnh trên thị trường. Đó là những hành vi cản trở cạnh tranh lành mạnh, không để cho cạnh tranh phát huy vai trò tích cực của nó trên thị trường. Những hành vi này dần dần sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến khách hàng, các doanh nghiệp và xa hơn nữa là làm cho thị trường mất cân bằng, mất cạnh tranh bình đẳng và không phát triển được.
Thông thường, pháp luật cạnh tranh sẽ liệt kê các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh nhằm hạn chế cạnh tranh để tạo điều kiện cho các cơ quan quản lí xác định hành vi lạm dụng của doanh nghiệp. Ngoài những hành vi đã được liệt kê, do sự phát triển đa dạng, nhanh chóng của thị trường và để điều chỉnh các hành vi mang bản chất lạm dụng vị trí thống lĩnh mà pháp luật chưa kịp quy định, pháp luật một số nước và khu vực như Pháp, Canada, EU… đã có quy định các hành vi có thể bị xem xét về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường nếu thỏa mãn các đặc điểm hoặc các điều kiện đã được mô tả trong luật nhằm hạn chế tối đa tình trạng lách luật của các doanh nghiệp.
Các hành vi lạm dụng quyền lực thị trường luôn được thực hiện trên một thị trường liên quan và việc xác định thị trường liên quan là một trong những bước quan trọng đầu tiên khi các cơ quan có thẩm quyền xác định vị trí thống lĩnh và hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp. Các hành vi của doanh nghiệp do chính doanh nghiệp thực hiện một cách độc lập, dù trong trường hợp hành vi lạm dụng do nhóm doanh nghiệp thực hiện thì các doanh nghiệp trong nhóm cũng không có sự thỏa thuận trước với nhau về việc cùng thực hiện các hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc áp dụng các chính sách giống nhau đối với khách hàng.
Thứ ba, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường có thể gây hậu quả nghiêm trọng đối với các doanh nghiệp cạnh tranh và khách hàng
Khác với các vụ việc dân sự, kinh tế thông thường luôn yêu cầu phải có một bên đưa ra thì các cơ quan đại diện Nhà nước mới can thiệp vào mối quan hệ giữa các bên, vụ việc liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh có thể được cơ quan nhà nước can thiệp bất kì lúc nào nếu phát hiện ra có dấu hiệu của hành vi. Việc phát hiện này có thể xuất phát từ phản ánh của khách hàng, người dân, các doanh nghiệp khác, các phương tiện truyền thông, hoặc chính từ cơ quan quản lý cạnh tranh. Tùy thuộc vào cách nhìn nhận, sự điều chỉnh và các chính sách đối với nền kinh tế ở mỗi quốc gia, khu vực mà pháp luật cạnh tranh sẽ điều chỉnh hành vi lạm dụng ở các mức độ khác nhau. Muốn đảm bảo tuyệt đối sự cạnh tranh lành mạnh cho nền kinh tế, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp, cá nhân thì họ có thể áp dụng các biện pháp điều tra, xử lý đối với các hành vi này ngay khi nó xuất hiện, dù nó có mang lại lợi ích kinh tế lớn hơn thiệt hại mà nó gây ra cho các chủ thể khác trên thị trường. Đây được gọi là nguyên tắc xử lý coi hành vi lạm dụng có sự nguy hại tất yếu
4. Quy định về mức xử phạt hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 Nghị định 75/2019/NĐ-CP, doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường hoặc từng doanh nghiệp thuộc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường sẽ bị phạt tiền 01% đến 10% tổng doanh thu trên thị trường liên quan trong năm tài chính liền kề trước năm thực hiện hành vi vi phạm thuộc một một trong các hành vi sau đây:
- Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ đối thủ cạnh tranh;
- Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng;
- Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng;
- Áp dụng điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch tương tự dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác;
- Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác trong ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc yêu cầu doanh nghiệp khác, khách hàng chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác;
- Ngăn cản việc tham gia hoặc mở rộng thị trường của doanh nghiệp khác;
- Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm theo quy định của luật khác.
Pháp luật chỉ xử lý hành vi lạnh dụng chứ không xử lý vị trí thống lĩnh hay độc quyền của doanh nghiệp, tức là chỉ tạo ra khuôn khổ để quản lý hành vi lạm dụng mà không tạo ra khuôn khổ cho sự cạnh tranh kinh doanh trên thị trường của các doanh nghiệp. Quyền cạnh tranh của các doanh nghiệp thống lĩnh thị trường, doanh nghiệp độc quyền vẫn được pháp luật bảo hộ.Quy định đặt ra ranh giới các hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp thống lĩnh hoặc độc quyền bằng cách đặt ra các hành vi bị coi là lạm dụng.