Hành hung không cố ý nhưng gây thương tích nghiêm trọng. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Hành hung không cố ý nhưng gây thương tích nghiêm trọng. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Tóm tắt câu hỏi:
bạn em có hành hung 1 người nhưng không phải do cố ý?sự việc là trong lúc làm việc trong 1 tập thể nhưng nạn nhận lại là 1 người thiếu trách nhiệm vs công việc nhiều lần và đã có nhăc nhở nhưng nạn nhân không thay đổi.trong lúc làm việc mệt mỏi bạn em không kiềm chế được bản thân đã dùng gậy đánh trúng vào đầu và mặt nạn nhân nhưng sau đó có đưa đi bệnh viện và khám chữa bệnh không có thương tích nghiêm trọng.và bạn em củng có bồi thường trước 1 khoảng tiền.vậy cho em hỏi thì bạn em sẽ bị tội gì và chịu trách nhiệm vs hành vi phạm tội đó.?
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Cơ sở pháp lý:
– Bộ luật hình sự năm 1999;
– Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
2. Luật sư tư vấn:
Trường hợp của bạn nếu tỉ lệ thương tích dưới 11%, chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì về hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác sẽ bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại điểm e khoản 3 Điều 5 của
"3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
e) Xâm hại hoặc thuê người khác xâm hại đến sức khỏe của người khác".
Trường hợp của bạn nếu tỉ lệ thương tích lớn hơn 11%, thì bán sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu có yêu cầu của người bị hại căn cứ theo khoản 1, Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, cụ thể là:
"1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình
e) Có tổ chức;
g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
I) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
Và căn cứ tại Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về khởi tố cụ án hình sự theo yêu cầu người bị hại, như sau:
"1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.
Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức".
Như vậy, tùy theo tỉ lệ thương tật và người bị hại có yêu cầu khởi tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với trường hợp này.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật hình sự qua tổng đài: 1900.6568
Theo khoản 2, 3, 4 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định:
"2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân."
Vì bạn không nêu rõ tỷ lệ thương tích của người bị đánh là bao nhiêu nên nếu thuộc khoản 2,3,4 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 như nêu trên bạn sẽ bị khởi tố và truy cứu trách nhiệm hình sự.