Hạn chế khi thực hiện quyền được giáo dục của trẻ em có HCĐB. Hạn chế về thực hiện quyền được giáo dục của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và những nguyên nhân chủ yếu là gì?
Mục lục bài viết
1. Hạn chế về thực hiện quyền được giáo dục của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt:
Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, cũng cần phải thẳng thắn nhìn nhận việc thực hiện quyền được giáo dục của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam còn tồn tại những hạn chế nhất định. Thực tế, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt còn gặp phải nhiều rào cản và sự bất bình đẳng trong quá trình tiếp cận quyền giáo dục.
Thứ nhất, hạn chế trong chính sách pháp luật về quyền được giáo dục của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
Đầu tiên, quy định pháp luật về nhập học lớp 1 bỏ qua nhóm trẻ không có giấy tờ. Hồ sơ nhập học lớp 1 do Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh, thành phố ban hành. Tác giả luận văn sẽ lấy Hướng dẫn tuyển sinh vào các trường mầm non, lớp 1 và lớp 6 năm học 2022-2023 của Sở Giáo dục và Đào thành phố Hà Nội làm ví dụ để phân tích. Hướng dẫn này yêu cầu hồ sơ tuyển sinh lớp 1 bao gồm các giấy tờ như giấy khai sinh, sổ hộ khẩu, sổ tạm trú, giấy xác nhận thông tin cư trú… Tuy nhiên, hướng dẫn này không quy định những trường hợp khác như trẻ không có giấy khai sinh, không có đăng ký thường trú hoặc tạm trú thì thực hiện thủ tục nhập học như thế nào. Vì không có hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền, nên thực tế, việc các trường có nhận các học sinh thiếu giấy tờ vào học hay không có thể do quyết định từ ban giám hiệu nhà trường. Nếu ban giám hiệu trường tiểu học đó “hỗ trợ”, trẻ có thể được nhập học, nếu không nhận được sự “hỗ trợ” này, trẻ hoàn toàn có thể bị từ chối nhập học do không đáp ứng được yêu cầu về hồ sơ tuyển sinh.
Tiếp theo, quy định pháp luật chưa đảm bảo quyền được khai sinh của mọi trẻ em, Pháp luật về hộ tịch quy định:
“Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày sinh con, cha hoặc mẹ có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho con; trường hợp cha, mẹ không thể đăng ký khai sinh cho con thì ông hoặc bà hoặc người thân thích khác hoặc cá nhân, tổ chức đang nuôi dưỡng trẻ em có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ em.
Công chức tư pháp – hộ tịch thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc đăng ký khai sinh cho trẻ em trên địa bàn trong thời hạn quy định; trường hợp cần thiết thì thực hiện đăng ký khai sinh lưu động.”
Pháp luật quy định cha, mẹ hay người thân của trẻ có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ, công chức tư pháp – hộ tịch có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc việc đăng ký khai sinh nhưng lại không có bất kỳ quy định, chế tài gì xử lý trong trường hợp cha mẹ không đăng ký khai sinh và việc đôn đốc, kiểm tra tình trạng đăng ký khai sinh của công chức tư pháp – hộ tịch cũng không có hướng dẫn cụ thể. Trên thực tế có nhiều gia đình không, không thể hoặc không biết để đăng ký khai sinh cho trẻ và như đã trích dẫn số liệu ở trên thì hiện vẫn có rất nhiều trẻ em chưa được đăng ký khai sinh nhưng chưa thấy sự vào cuộc mạnh mẽ của các công chức tư pháp — hộ tịch cũng như các cơ quan quản lý và đăng ký hộ tịch.
Một trong những giấy tờ cần xuất trình khi đăng ký khai sinh cho trẻ là giấy chứng sinh, tuy nhiên, quy định về cấp giấy chứng sinh cho trẻ còn những điểm chưa thống nhất với những quy định pháp luật hộ tịch khác. Thông tư số 03/VBHN- BHYT quy định cấp và sử dụng giấy chứng sinh chỉ quy định về thẩm quyền và thủ tục cấp, cấp lại giấy chứng sinh mà không coi đó là một nghĩa vụ bắt buộc của cơ sở y tế khi trẻ em được sinh tại cơ sở y tế đó. Trong khi, giấy khai sinh lại là một giấy tờ bắt buộc khi đăng ký khai sinh đối với trẻ em sinh trong cơ sở y tế.
Một nguyên nhân lớn khác khiến tình trạng trẻ em chưa có giấy khai sinh là do cha, mẹ trẻ không có giấy tờ tùy thân. Việc cha, mẹ không có giấy tờ tùy thân dẫn đến việc không xác định được nhân thân của những người này, đồng thời không xác định được quan hệ cha, mẹ, con. Có thể hiểu, trong tình huống đó, trẻ sẽ được đăng ký khai sinh theo trường hợp khai sinh cho trẻ chưa xác định được cha, mẹ và trong sổ hộ tịch ghi rõ “Trẻ chưa xác định được cha, mẹ”. Một đứa trẻ có đầy đủ cha mẹ, hoặc ít nhất là mẹ trên thực tế nhưng không được pháp luật công nhận vì cha, mẹ trẻ hoặc thậm chí ông, bà trẻ không “tồn tại” về mặt pháp luật. Pháp luật về hộ tịch và những người thực thi pháp luật hộ tịch dường như đã bỏ quên những con người này. Trong khi, quyền được khai sinh và có quốc tịch yêu cầu nhà nước có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ và ngay lập tức mọi biện pháp để đảm bảo những quyền này cho trẻ em.
Ngoài ra, quy định về giáo dục cho trẻ em khuyết tật còn tồn tại hạn chế, bất cập. Chính sách về giáo dục trong Luật Người khuyết tật hiện hành vẫn nghiêng về hướng “khuyến khích”, “tạo điều kiện” của Nhà nước đối với quyền được giáo dục của trẻ em khuyết tật mà thiếu sự khẳng định rõ về việc Nhà nước có nghĩa vụ “đảm bảo một hệ thống giáo dục hoà nhập ở tất cả các cấp và chương trình học tập suốt đời” như quy định trong Công ước Quốc tế về quyền của người khuyết tật. Luật Người khuyết tật năm 2010 xác định trách nhiệm của cơ sở giáo dục trong việc “…không được từ chối tiếp nhận người khuyết tật nhập học trái với quy định của pháp luật”. Tuy nhiên, như thế nào là từ chối tiếp nhận người khuyết tật nhập học trái với quy định của pháp luật thì chưa được làm rõ. Điều này dẫn đến việc thực hiện pháp luật không thống nhất, vì vậy trên thực tế cũng đã có một số vi phạm tới quyền học tập của trẻ em khuyết tật, vẫn có những trường hợp trẻ em khuyết tật bị từ chối tiếp nhận vào trường mẫu giáo, tiểu học vì lý do khuyết tật và việc từ chối đa phần không được công khai bằng văn bản.
Thứ hai, hạn chế trong hệ thống bảo vệ và giám sát quyền được giáo dục của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
Tại Việt Nam hiện nay, tất cả các hệ thống xã hội và chính trị đều có vai trò và nghĩa vụ bảo đảm thực hiện các quyền trẻ em. Theo quy định của Luật Trẻ em năm 2016 và Quyết định số 856/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Việt Nam có 18 cơ quan, tổ chức, nhóm tổ chức có chức năng bảo vệ quyền trẻ em ở các cấp độ khác nhau. Các cơ quan, tổ chức này là: Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, Bộ Tư pháp, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công an, Ủy ban nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận, Các tổ chức xã hội, Tổ chức kinh tế, Tổ chức phối hợp liên ngành về trẻ em, Qũy Bảo trợ trẻ em và Ủy ban Quốc gia về trẻ em. Mặc dù vậy, rất nhiều vụ việc xâm phạm quyền trẻ em được phát hiện nhờ thông tin từ cộng đồng, báo chí rồi các cơ quan, tổ chức này mới hay biết. Đó là những vụ việc xâm phạm quyền trẻ em nghiêm trọng, còn những vụ việc vi phạm quyền được giáo dục của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt gần như không được phát hiện, bởi các “nạn nhân” không dám lên tiếng và các cơ quan, tổ chức thì chưa thực sự vào cuộc, hoặc có thì cũng chỉ là sự bày tỏ quan điểm, chỉ đạo đường hướng mà không có sự vào cuộc thực chất bằng hành động.
Một bất cập nữa mà đa số ở địa phương nào cũng xảy ra đó là tổ chức liên ngành các cấp về trẻ em còn mang tính hình thức, thiếu sự chỉ đạo và hướng dẫn cụ thể của Ủy ban Quốc gia về trẻ em. Cơ cấu tổ chức liên quan đến việc bảo vệ và chăm sóc trẻ em của Bộ LĐTBXH bao gồm Cục Trẻ em; ở cấp tỉnh, Phòng Bảo vệ và chăm sóc trẻ em dưới sự quản lý của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội (Sở LĐTBXH); ở cấp huyện, có các cán bộ chịu trách nhiệm về vấn đề chăm sóc, giáo dục trẻ em thuộc phòng Lao động – Thương binh và xã hội; ở cấp xã, các cán bộ phụ trách phụ trách công tác lao động – thương binh – xã hội đồng thời cũng chịu trách nhiệm về các vấn đề trẻ em. Vấn đề thực thi quyền trẻ em bởi các bộ chủ quản và các chính quyền địa phương chưa thực sự hiệu quả. Năm 2019, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội có Công văn số 2805/LĐTBXH-TE về đẩy mạnh công tác bảo vệ trẻ em cấp xã, theo đó, tổ chức phối hợp liên ngành về trẻ em cấp xã do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã trực tiếp phụ trách và các thành viên khác là những cả nhân gần gũi và quản lý trực tiếp trẻ em ở trong địa phương, tuy nhiên, đội ngũ làm công tác trẻ em cấp xã đa phần là cán bộ lao động, thương binh, xã hội kiêm nhiệm, họ quá tải về công việc, không đủ điều kiện, năng lực chuyên môn để làm công tác trẻ em.
Cơ chế bảo vệ trẻ em nói chung còn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, chưa hoàn thành được nhiệm vụ theo pháp luật quy định thì rất khó để có thể đảm bảo quyền được giáo dục của trẻ em, đặc biệt là những trẻ em dễ bị tổn thương. Trong khi có vẻ những vi phạm về quyền được giáo dục của trẻ em chưa thật sự là ưu tiên so với những vi phạm khác.
Cùng với đó, Việt Nam chưa có một cơ quan giám sát độc lập việc thực hiện quyền trẻ em. Điều này phần nào khiến cho quá trình giám sát chính sách, thực thi pháp luật về quyền trẻ em nói chung hay quyền của những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nói riêng chưa thực sự hiệu quả.
Thứ ba, tình trạng bất bình đẳng và phân biệt đối xử trong tiếp cận giáo dục của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt vẫn còn tồn tại. Tình trạng này cũng dẫn đến không đảm bảo các yếu tố miễn phí, sẵn có và có thể tiếp cận được trong quyền được giáo dục của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
Bình đẳng hay không phân biệt đối xử là nguyên tắc căn bản trong luật nhân quyền nói chung và quyền trẻ em nói riêng. Liên quan đến bản chất của nguyên tắc không phân biệt đối xử, Bình luận chung số 20 của Ủy ban giám sát Công ước quốc tế về quyền kinh tế – văn hóa – xã hội đã ghi nhận: “Phân biệt đối xử bao gồm bất kỳ sự tách biệt, loại trừ, hạn chế hay ưu đãi hoặc đối xử khác biệt nào mà trực tiếp hoặc gián tiếp dựa trên những nền tảng phân biệt đối xử đã bị cấm và nhằm mục đích hoặc làm ảnh hưởng đến sự công nhận, thụ hưởng hoặc thực thi các quyền trong Công ước một cách bình đẳng. Phân biệt đối xử cũng bao gồm việc khuyến khích phân biệt đối xử và quấy rối.”
Có các dạng phân biệt đối xử trực tiếp và phân biệt đối xử một cách gián tiếp. Phân biệt đối xử trực tiếp được hiểu là việc đối xử ít thuận lợi hơn đối với một hoặc một số cá nhân trong cùng một tình huống mà theo pháp luật và lẽ công bằng thì tất cả mọi người đều cần được đối xử theo cùng một cách.
Từ một góc độ khác, Bình luận chung số 6 của Ủy ban giám sát Công ước Quốc tế về quyền kinh tế – văn hóa – xã hội đồng thời ghi nhận rằng: “bình đẳng trong việc thụ hưởng một quyền cụ thể… không chỉ có nghĩa là các quyền thụ hưởng ấy “tồn tại” trong pháp luật (hay còn gọi là bình đẳng hình thức) mà còn phải có sự “bình đẳng thực chất”, nghĩa là sự thụ hưởng ấy phải tồn tại trong thực tế và có thể “tiếp cận được” với mọi người ….
Theo CRC, trẻ em có quyền không bị phân biệt đối xử và bình đẳng. Điều này có nghĩa là mọi trẻ em, không có sự phân biệt và ngoại lệ, đều có cơ hội được hưởng đầy đủ các quyền thông qua các biện pháp tích cực, chủ động của các chủ thể có trách nhiệm với các em, trong đó bao gồm nhà nước, nhà trường, gia đình và cộng đồng. Việc yêu cầu trẻ phải có giấy khai sinh và hộ khẩu để đăng ký vào trường học dẫn đến sự phân biệt đối xử với những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em trong các gia đình lao động nhập cư, hay không quốc tịch – mà thường gặp khó khăn trong việc có được những giấy tờ đó. Hay việc đưa ra những khoản chi phí ngoài học phí như đồng phục, sách giáo khoa, các khoản quỹ cũng tạo ra sự phân biệt đối xử với những trẻ em trong các gia đình nghèo. Trong khi đó, Điều 6 Luật Trẻ em năm 2019 quy định “Kỳ thị, phân biệt đối xử với trẻ em vì đặc điểm cá nhân, hoàn cảnh gia đình, giới tính, dân tộc, quốc tịch, tín ngưỡng, tôn giáo của trẻ em” là một trong những hành vi bị nghiêm cấm.
* Bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục với trẻ em trong các gia đình nghèo.
Trẻ em là nhóm dễ bị tổn thương và chịu ảnh hưởng mạnh từ nghèo đói. Thiếu hụt dinh dưỡng, giáo dục, tiếp cận với nhà tiêu hợp vệ sinh và nước sạch sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới sức khỏe và giáo dục của trẻ trong suốt cuộc đời. Mặc dù kinh tế thế giới không ngừng tăng trưởng, nhưng hiện vẫn có khoảng 10% dân số thế giới sống dưới mức 1,90 đô la Mỹ một ngày. Do các hộ nghèo thường đông trẻ em nên trẻ em tuy chiếm khoảng một phần ba dân số thế giới nhưng lại chiếm tới một nửa số người nghèo. Theo ước lượng của UNICEF khoảng một phần ba trẻ em đang sống trong các hộ gia đình nghèo đa chiều, có nghĩa là các nhu cầu thiết về giáo dục, dinh dưỡng, vệ sinh hoặc nước sạch… không được đáp ứng đầy đủ. Kết quả Điều tra các mục tiêu phát triển bền vững về trẻ em và phụ nữ Việt Nam 2020 – 2021 được Tổng cục Thống kê Việt Nam phối hợp với các bộ ngành liên quan thực hiện năm 2020 và 2021 trong khuôn khổ Chương trình Điều tra đa chỉ tiêu (MICS) toàn cầu của UNICEF cho thấy tỷ lệ trẻ em từ 6-10 tuổi ngoài nhà trường là 1,2%, tỉ lệ này là 5,6% ở nhóm tuổi 11-14 tuổi và 21,6% ở nhóm tuổi 15- 17 tuổi. Tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường cao hơn ở trẻ em có mẹ không có bằng cấp, trẻ em trong nhóm nghèo nhất. Tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường trong nhóm nghèo nhất cao hơn từ 4 lần, gần 15 lần và gần 50 lần so với trẻ em trong nhóm giàu nhất, xét lần lượt trong các nhóm tuổi 6-10 tuổi, 11-14 tuổi và 15-17 tuổi. Có thể thấy càng lên cấp học cao, tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường càng lớn. Trẻ em có mẹ không có bằng cấp và trẻ em trong gia đình nghèo có tỉ lệ không đến trường cao hơn rất nhiều so với trẻ có mẹ có trình độ học vấn cao và trong các gia đình có mức sống cao hơn.
Kết quả Điều tra quốc gia về Lao động trẻ em năm 2018 cũng chỉ ra kết quả là ở độ tuổi càng lớn thì tỷ lệ trẻ em không đi học càng cao. Về nguyên nhân, có trên 44,8% trẻ em 5-17 tuổi không đi học vì không thích đi học/ học kém; 15% vì lý do tham gia lao động để tạo thu nhập cho bản thân và gia đình hoặc để phụ giúp quá trình sản xuất kinh doanh của hộ gia đình; 14,4% vì không có tiền để chi phí cho việc học tập.
* Bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục với trẻ em không có đăng ký hộ tịch và cư trú.
Đăng ký hộ tịch với trẻ em được hiểu là đăng ký khai sinh. Quyền được khai sinh là một quyền cơ bản của mọi trẻ em khi được sinh ra. Quyền được khai sinh của trẻ em được quy định trong rất nhiều văn bản pháp lý quốc tế và quốc gia. Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền nói rằng “Ai cũng có quyền có quốc tịch.” Công ước Quốc tế về quyền trẻ em quy định “Trẻ em phải được đăng ký ngay lập tức sau khi được sinh ra và có quyền có họ tên, có quốc tịch ngay từ khi chào đời.” Luật Trẻ em năm 2016, cụ thể như sau: “Trẻ em có quyền được khai sinh.”
Đăng ký cư trú được hiểu là thủ tục đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú. Pháp luật Việt Nam quy định công dân có quyền đăng ký cư trú và cũng có nghĩa vụ đăng ký cư trú nhưng trên thực tế vẫn có rất nhiều trẻ em không thể thực hiện hiện quyền lẫn nghĩa vụ này của mình. Những trẻ em này thường sống trong các gia đình mà bố mẹ, người thân cũng không có đăng ký cư trú. Có nhiều lý do để một người không có đăng ký cư trú như: chưa từng đăng ký cư trú trú, di cư, bị xóa thường trú… Trong khi đó, yêu cầu của hồ sơ tuyển sinh Tiểu học gồm phiếu đăng ký, bản sao Giấy khai sinh và bản photo sổ hộ khẩu, sổ tạm trú. Như vậy, những trẻ em trong các gia đình này sẽ không đủ điều kiện đăng ký nhập học Tiểu học công lập. Một giải pháp cho những trẻ em không có đăng ký thường trú tại nơi sinh sống hiện tại là lựa chọn học trường tư thục. Số liệu cho thấy, nhóm dân số không có đăng ký hộ khẩu có tỷ lệ học tại các trường tư cũng cao hơn so với nhóm dân số có đăng ký hộ khẩu (17,9% so với 4,6%). Nhưng thực tế, chi phí học tập ở trường tư thục cao hơn nhiều so với trường công lập, trong khi, các khoản chi phí ở trường công lập đã là quá sức với những gia đình có hoàn cảnh đặc biệt thì việc học trường tư thục là bất khả thi với những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt như trẻ em di cư, trẻ em trong gia đình nghèo. Thực tế, trẻ không tiếp cận được với giáo dục do cả rào cản về vật chất lẫn giấy tờ.
* Bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục với trẻ em trong các gia đình di cư.
Có sự khác biệt trong tiếp cận giáo dục giữa nhóm trẻ em di cư và không di cư, tuy có cải thiện qua thời gian. Nhóm trẻ em di cư luôn có kết quả tiếp cận giáo dục kém hơn so với nhóm không di cư và sự khác biệt cũng tăng khi độ tuổi tăng. Năm 2014, trẻ em trong các gia đình di cư có tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường cao hơn các gia đình không di cư 1,2 lần ở độ tuổi 5 tuổi, 1,6 lần ở độ tuổi tiểu học, và 1,7 lần ở độ tuổi trung học cơ sở. Trẻ em trong các gia đình di cư có thể gặp phải cả hai rào cản kể trên là rào cản về kinh tế và rào cản về giấy tờ (đăng ký khai sinh, đăng ký cư trú). Do không được xét đến trong danh sách hộ nghèo, nên nhóm nghèo nhập cư thưởng không tiếp cận được với các chính sách hỗ trợ dành cho hộ nghèo của địa phương. Những gia đình di cư cũng khó có khả năng đăng ký thường trú tại những nơi họ di chuyển đến bởi họ không có nơi ở và công việc ổn định. Theo kết quả Khảo sát nghèo đô thị tại Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh năm 2012, việc tiếp cận giáo dục của trẻ em di cư vẫn còn bị hạn chế hơn trẻ em thường trú. Tỷ lệ đi học đúng tuổi của trẻ em thường trú đạt 98,9% trong khi của trẻ em di cư chỉ đạt 93,8%.
Ngoài ra, con em của các gia đình nghèo di cư khó vào học ở các trường công lập hơn nên các hộ dân di cư phải cho con em họ đi học ở các trường ngoài công lập nhiều hơn các hộ dân thường trú, tương ứng là 18,2% so với 10,4% và như vậy họ thường phải chịu chi phí đắt đỏ hơn. Trong những trường hợp này, giáo dục dường như không sẵn có và không thể tiếp cận được với trẻ em di cư.
* Bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục với trẻ em khuyết tật.
Trên thực tế, cơ hội tiếp cận trường học của trẻ em khuyết tật thấp hơn nhiều trẻ em không khuyết tật. Giáo dục hòa nhập của trẻ em khuyết tật còn nhiều hạn chế. Điều tra quốc gia người khuyết tật năm 2016 tỷ lệ đi học chung của trẻ khuyết tật là 88,41% trong khi tỷ lệ này ở trẻ không khuyết tật là 100,85%; tỷ lệ đi học đúng tuổi ở trẻ khuyết tật là 81,69% trong khi tỷ lệ này ở trẻ không khuyết tật là 96,05%. Cứ 100 trường học, chỉ có 3 trường có thiết kế phù hợp (2,9%), 8 trường có lối đi dành cho người khuyết tật (8,1%) và 10 trường có công trình vệ sinh phù hợp với trẻ khuyết tật (9,9%). Không chỉ thiếu cơ sở vật chất, có gần 3/4 số trường thiếu giáo viên giảng dạy học sinh khuyết tật (72,3%), cứ 7 giáo viên tiểu học và trung học cơ sở thì mới có 1 người được đào tạo để giảng dạy cho học sinh khuyết tật (14,1%). Vậy các ngôi trường đó nếu có trẻ khuyết tật nhìn, trẻ khuyết tật nghe nói có trang thiết bị hay đảm bảo phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu cho trẻ học tập hay không? Con số này chưa được tìm thấy trong các báo cáo điều tra quốc gia. Như vậy, yếu tố sẵn có và có thể tiếp cận được trong giáo dục với trẻ khuyết tật cũng không được đảm bảo khi mà cơ sở vật chất tại trường học không xây dựng và trang bị phù hợp với nhu cầu của trẻ khuyết tật, đội ngũ giáo viên không được đào tạo để dạy cho học sinh khuyết tật.
Đa số trẻ em khuyết tật vẫn bị coi như đối tượng cần được bảo trợ, và ít được tiếp cận tới giáo dục bình đẳng như trẻ không khuyết tật. Giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật đã được thực tế chứng minh là tốt, tuy nhiên chỉ 42,7% người được hỏi trong 35.442 hộ gia đình tin rằng trẻ khuyết tật nên đi học cùng các trẻ em khác, trong khi có 28,8% cho rằng tùy thuộc vào tình trạng khuyết tật và 24,0% người trả lời cho rằng trẻ khuyết tật nên học trường chuyên biệt.
Việc để trẻ em khuyết tật học cùng với trẻ em khác và học chung giáo trình đã cho những kết quả tích cực, nhưng ngoài việc học chung trong cùng một phòng học, điều quan trọng là những phòng học đó phải đáp ứng được những nhu cầu của trẻ khuyết tật. Tập huấn cho giáo viên là một yếu tố quan trọng đối với giáo dục hòa nhập. Tuy nhiên, kết quả từ Điều tra quốc gia người khuyết tật Việt Nam năm 2016 cho thấy rất ít giáo viên được đào tạo về giáo dục hòa nhập. Trên cả nước, bình quân mỗi trường học có 33 giáo viên, tuy nhiên chưa đến 5 giáo viên được đào tạo về giáo dục hòa nhập. Thực tế chỉ có 14% số trường, hay khoảng 1/7 số trường có giáo viên được đào tạo về khuyết tật. Tỷ lệ này ở cấp Tiểu học (gần 1/6) cao hơn THCS (1/10). Các trường đang nhận ra những vấn đề này, viện dẫn vấn đề thiếu giáo viên được đào tạo và thiếu cơ sở vật chất phù hợp.
2. Nguyên nhân của hạn chế:
Có một số rào cản và vướng mắc gây ra tình trạng trên, gồm các rào cản chính sách, rào cản kinh tế, các rào cản văn hóa, xã hội và các rào cản từ chính hệ thống giáo dục. Rào cản chính sách là những quy định pháp luật và quá trình thực thi những quy định này còn hạn chế. Rào cản kinh tế chủ yếu là tình trạng nghèo đói làm hạn chế khả năng chi trả của gia đình cho các chi phí học tập của con em họ.
Các rào cản kinh tế khác gồm trẻ em phải lao động sớm, trẻ em di cư. Những rào cản này nằm ngay trong các gia đình, cộng đồng và trong những tập tục lâu đời mà gia đình, cộng đồng vẫn còn lưu giữ. Ở Việt Nam, vấn đề lớn liên quan tới các rào cản văn hóa, xã hội là thiếu nhận thức về giá trị lâu dài của giáo dục, từ đó dẫn tới thiếu sự tham gia thực sự hiệu quả của gia đình và cộng đồng vào giáo dục. Các rào cản văn hóa, xã hội khác gồm: kết quả học tập kém, trẻ không muốn đi học; thiếu sự quan tâm của cha mẹ. Các rào cản liên quan tới hệ thống giáo dục bao gồm cơ sở hạ tầng, nguồn lực, giáo viên và môi trường học tập làm ảnh hưởng đến việc nhập học và tiếp tục ở lại trường của trẻ em.
2.1. Nguyên nhân chính sách và thực thi chính sách:
Mặc dù, pháp luật Việt Nam đã tương đối tiệm cận với pháp luật quốc tế về quyền được giáo dục của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Tuy nhiên, như đã phân tích, còn rất nhiều yếu tố bất bình đẳng trong cả chính sách pháp luật và thực thi chính sách về quyền được giáo dục của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Một trong số những nguyên nhân có thể đến từ việc Việt Nam chưa tham gia Công ước về chống phân biệt đối xử trong giáo dục, chưa có một kim chỉ nam rõ ràng về phân biệt đối xử trong giáo dục. Công ước về chống phân biệt đối xử trong giáo dục là một hệ thống rất rõ ràng và bao hàm các nguyên tắc để đảm bảo không có bất kỳ sự phân biệt, bài trừ, hạn chế hoặc ưu đãi nào dựa trên bất kỳ yếu tố nào trong giáo dục. Theo đó, Công ước yêu cầu các quốc gia thành viên cam kết những hành động cụ thể để xóa bỏ và ngăn chặn sự phân biệt đối xử trong giáo dục. Việc trở thành thành viên của Công ước này là cơ hội để mỗi nhà nước tự soi chiếu hệ thống pháp luật quốc gia với những nguyên tắc quốc tế về chống phân biệt đối xử trong giáo dục, nỗ lực và được yêu cầu nỗ lực nội luật hóa những nguyên tắc này.
Mặc dù đã có quy định quyền hạn, trách nhiệm của từng cơ quan liên quan trong việc đảm bảo quyền được giáo dục của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, tuy nhiên lại chưa thẳng thắn rõ làm trách nhiệm của từng cơ quan cũng như chưa có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan đó. Khi mỗi cơ quan chỉ tập trung thực hiện chức năng của mình một cách quan liêu, thiếu tính thực tiễn, thiếu sự phối hợp với những cơ quan khác để đạt mục tiêu chung là đảm bảo tốt nhất quyền được giáo dục của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt thì chính những trẻ em đó lại trở thành nạn nhân của việc quyền và lợi ích chính đáng không được đảm bảo. Một trẻ em sinh ra tại cơ sở y tế và mẹ của em không hoàn thành nghĩa vụ tài chính với cơ sở y tế, em hoàn toàn có thể không có giấy chứng sinh, trong khi đó sẽ là giấy tờ mà gia đình em được yêu cầu khi đăng ký khai sinh cho em và em lại phải đối mặt với nguy cơ không có giấy khai sinh và tương lai xa hơn là không được nhập học tiểu học.
Về giáo dục cho trẻ em khuyết tật, kể từ đầu những năm 1990, Nhà nước đã tiến hành xây dựng các chính sách nhằm bảo đảm trẻ khuyết tật được tiếp cận giáo dục. Vấn đề này đã được đề cập đến trong kế hoạch quốc gia “Giáo dục hòa nhập đến 2015” với mục tiêu cung cấp giáo dục hòa nhập cho tất cả trẻ em khuyết tật vào năm 2015. Các văn bản Luật Người khuyết tật năm 2010, Luật Giáo dục năm 2019, Luật Trẻ em năm 2016 và các văn bản hướng dẫn thi hành đều tạo hành lang pháp lý đảm bảo quyền bình đẳng và cơ hội giáo dục đầy đủ cho mọi trẻ em khuyết tật. Tuy nhiên, ngay cả những chính sách này cũng chưa thật sự tiệm cận đến quy định của Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật, chưa thật sự đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử trong tiếp cận giáo dục giữa trẻ em khuyết tật và trẻ em không khuyết tật. Mặc dù đã có chính sách về giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật nhưng ngân sách cho giáo dục hòa nhập không đủ, ngân sách cho giáo dục hòa nhập chủ yếu đến từ ngân sách nhà nước cấp theo kế hoạch ngân sách hàng năm của từng địa phương. Việc huy động từ các nguồn xã hội hóa giáo dục bên ngoài để hỗ trợ người khuyết tật cũng đã được thực hiện ở các địa phương, nhưng ngân sách huy động từ cộng đồng và các tổ chức không ổn định. Trong nghiên cứu Sự sẵn sàng cho giáo dục trẻ khuyết tật nghiên cứu tại 8 tỉnh ở Việt Nam năm 2015, thực hiện theo sự ủy thác của UNICEF Việt Nam, có 86% trường tham gia khảo sát báo cáo rằng họ không có bất kỳ khoản phân bổ ngân sách nào cho việc giáo dục trẻ khuyết tật.
2.2. Nguyên nhân kinh tế:
Tình trạng nghèo đói, lao động trẻ em và di cư là các rào cản kinh tế khiến trẻ em trong các gia đình có hoàn cảnh đặc biệt gặp khó khăn trong tiếp cận giáo dục.
Nghèo đói tuy có giảm qua các năm, Chính phủ tiếp tục hoàn thiện và bổ sung chính sách hỗ trợ trẻ em ở các hộ nghèo, cận nghèo đi học nhưng nghèo đói vẫn là rào cản kinh tế chủ yếu ngăn trẻ em đến trường. Hộ nghèo, cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn mặc dù đã có chính sách hỗ trợ chi phí học tập, miễn giảm học phí, nhưng vẫn không đủ tiền cho các chi phí gián tiếp như: thu hỗ trợ cho các hoạt động của học sinh, quỹ lớp, đồng phục, ăn ở, đi lại… Bên cạnh đó có những gia đình mà điều kiện kinh tế rất thấp nhưng không được coi là các hộ nghèo, cận nghèo, những gia đình này không thể tiếp cận chính sách hỗ trợ nên khó khăn của họ càng lớn.
Trẻ em phải lao động sớm cũng là một rào cản ngăn trẻ em đến trường. Trẻ em càng lớn thì rào cản này càng tăng. Theo số liệu Điều tra quốc gia về lao động trẻ em năm 2012 [7], số trẻ em trong độ tuổi từ 5-17 tuổi tham gia lao động là 2,83 triệu em, chiếm 16,7% trong đó lao động trẻ em là 1.754.000 em, chiếm 9,6% số trẻ em trong độ tuổi, trong đó 40,2% là trẻ em gái; có trên 912.000 em đã bỏ học đi làm (52%); 792.808 em vừa đi làm vừa đi học (45,2%) và 49.112 em chưa bao giờ được đi học (2,8%). Nhìn chung trẻ em trai phải bỏ học để tham gia lao động nhiều hơn trẻ em gái. Với các dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa thì trẻ em gái người ở độ tuổi trung học cơ sở là lực lượng lao động quan trọng, các em làm tất cả các công việc nội trợ trong gia đình: trông em, nấu cơm, chăn nuôi gia súc, gia cầm và tham gia lao động sản xuất.
Do vậy số trẻ em gái không học lên trung học cơ sở hoặc bỏ học ở trung học cơ sở luôn cao hơn trẻ em trai. Việc trẻ em phải làm việc phụ giúp gia đình hoặc lao động kiếm tiền dẫn đến tình trạng mệt mỏi, không có thời gian đầu tư cho việc học nên sức học giảm, học yếu dẫn đến chán và bỏ học; hoặc theo cha mẹ đi làm thuê theo mùa vụ gây bỏ học tạm thời, khi trở về học không theo kịp chương trình dẫn đến bỏ học vĩnh viễn. Những gia đình có trẻ em phải lao động sớm thường là những gia đình nghèo, tình hình tài chính khó khăn.
Di cư cũng là một tình trạng làm giảm khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em. Khái niệm “di cư” có thể được hiểu một cách khái quát là sự di chuyển nơi sinh sống hoặc làm việc của một bộ phận dân cư từ vùng này sang vùng khác trong một đất nước, hoặc từ nước này sang nước khác. Di cư có thể do nhiều nguyên nhân, nhưng phổ biến nhất là nguyên nhân kinh tế. Sự di cư góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi nền kinh tế, tạo ra những động lực giúp kinh tế, xã hội phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh đó, di cư cũng có những tác động tiêu cực đến vấn đề giáo dục của trẻ em. Cụ thể:
Thứ nhất, phần lớn các gia đình di chuyển nơi sinh sống vì lý do sinh kế, đặc biệt là những gia đình chuyển từ các vùng nông thôn, miền núi ra các đô thị, khu công nghiệp. Trong hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, việc làm bấp bênh, thu nhập thấp, rất nhiều trẻ em trong những gia đình di cư phải nghỉ học, lao động sớm để trợ giúp cha mẹ.
Thứ hai, một vấn đề lớn của những gia đình di cư, đặc biệt là những gia đình di cư từ nhiều đời là vấn đề về giấy tờ tùy thân, hộ tịch và đăng ký cư trú. Có rất nhiều gia đình di cư từ thời ông bà, cha mẹ, họ không có hoặc làm mất giấy tờ tùy thân sau đó không biết cách hoặc không thể làm, làm lại. Điều này dẫn đến họ không thể làm các công việc chính thức với thu nhập cao và ổn định, đồng thời, dẫn đến nhiều khó khăn, thậm chí là không thể đăng ký khai sinh cho những thế hệ sau. Một số gia đình di cư sống trong các khu vực tạm bợ, lấn chiếm nên việc đăng ký cư trú (tạm trú, thường trú) là khó khăn và gần như không thể. Việc thiếu giấy tờ tùy thân và đăng ký cư trú gây trở ngại trong quá trình đăng ký học tại trường công lập của trẻ em trong những gia đình di cư này.
Thứ ba, trong trường hợp di cư một mình, thường là đến thành phố lớn, không có gia đình đi kèm, trẻ em đối mặt với nguy cơ rất cao là không được đi học và bị rơi vào vòng xoáy của lao động trẻ em. Tương tự, trong những trường hợp cha mẹ di cư không đi cùng con, nguy cơ con cái họ bỏ học cũng rất lớn, bởi điều kiện kinh tế khó khăn và thiếu người chăm sóc, nuôi dưỡng.
Nghèo đói, lao động trẻ em và di cư rõ ràng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Một gia đình nghèo thì nguy cơ trẻ phải nghỉ học để đi làm kiếm tiền hoặc phụ giúp gia đình rất cao và một phần lớn dân cư di cư cũng chính là các gia đình nghèo. Chính những khó khăn này cùng với các chi phí liên quan đến học tập, trường học sẽ đẩy trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt xa dần khỏi cơ hội được học tập.
2.3. Nguyên nhân văn hóa – xã hội:
Một số rào cản văn hóa xã hội vẫn tiếp tục tồn tại làm hạn chế khả năng đến trường và duy trì học tập hiệu quả của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, dẫn đến tình trạng các em không được đi học, phải bỏ học. Các rào cản này bao gồm trẻ không muốn đi học, thiếu sự quan tâm của cha mẹ và gia đình, định kiến xã hội với trẻ khuyết tật.
Kết quả học tập kém, trẻ không muốn đi học tiếp tục là một rào cản và có xu hướng tăng qua các năm. Đối với trẻ em nghèo, đây có thể là thách thức lớn hơn vì các em thường không được sự hỗ trợ của cha mẹ khi học tập ở nhà, không nhận được sự động viên và khích lệ của gia đình trong học tập và có thể có những trường hợp không được giáo viên quan tâm, thông cảm. Có nhiều lý do khiến trẻ không muốn đi học, ví dụ: bản thân trẻ hoặc cha mẹ của trẻ không nhận thức được giá trị lâu dài của giáo dục; không có động lực đi học vì cho rằng học cũng không hơn gì, lại đầu tư tốn kém; giá trị từ việc trẻ em đi làm, kiếm tiền sớm; trẻ khuyết tật không muốn/ không được tạo điều kiện học hòa nhập….
Theo Khảo sát mức sống năm 2018, trong số những học sinh bỏ học, thì nguyên nhân thường là do bố mẹ không quan tâm đến học hành của con cái (60,9%), trẻ em không có khả năng học hoặc không thích đi học (60,4%), do là kinh tế khó khăn (59,5%).
Thiếu sự quan tâm của cha mẹ tiếp tục là rào cản và là một trong các lý do chính khiến trẻ bỏ học. Thiếu sự quan tâm của cha mẹ đồng nghĩa với việc học hành của con cái không được coi trọng, bên cạnh đó là vấn đề chi phí cơ hội khi trẻ có thể đóng góp làm tăng thu nhập cho gia đình thông qua lao động của các em. Bên cạnh đó, tình trạng trẻ em không có khả năng học hoặc không thích đi học cũng cần được quan tâm và đặt câu hỏi về phương pháp và chất lượng dạy và học.
2.4. Nguyên nhân từ hệ thống giáo dục:
Một số lý do trẻ không thể hoặc gặp khó khăn trong việc đi học có liên quan đến hệ thống giáo dục gồm: chi phí phải đóng góp quá lớn; môi trường học tập không thân thiện và phù hợp với trẻ em khuyết tật; một số giáo viên và nhà trường chưa quan tâm hỗ trợ trẻ học kém và có nguy cơ bỏ học.
Như đã phân tích ở trên, chính những chi phí ngoài học phí mà học sinh và phụ huynh phải trả mới là rào cản tiếp cận giáo dục cho học sinh có hoàn cảnh đặc biệt. Những khoản phí đóng thêm này có định mức cao hơn gấp nhiều lần so với học phí mà Nhà nước quy định. Gánh nặng chi phí đè lên vai mỗi phụ huynh, học sinh, những người đã và đang phải “vật lộn” với cuộc sống khó khăn. Nếu phụ huynh không hoàn thành đủ các khoản phí này, trẻ có nguy cơ phải đối mặt với những phân biệt đối xử tại trường học. Tình thế “tiến thoái lưỡng nan” đã đẩy nhiều trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt đến gần nguy cơ phải bỏ học. Chi phí cho giáo dục trở thành trách nhiệm của các gia đình đồng nghĩa với việc không công bằng trong giáo dục và giáo dục chất lượng không dành cho trẻ em nghèo. Có nhiều khả năng các em sẽ tham gia sớm vào thị trường lao động thay vì đi học, như một giải pháp thay thế, khi giáo dục trở nên quá đắt đỏ.
Hệ thống giáo dục không đầy đủ tạo ra rào cản với học sinh khuyết tật, ví dụ như trường học không đáp ứng nhu cầu, thiếu giáo viên đủ trình độ và sự phân biệt đối xử là rào cản khiến trẻ em khuyết tật khó khăn trong tiếp cận giáo dục hòa nhập. Ngay cả khi học sinh có đủ điều kiện về thể chất nhưng nếu nền giáo dục không phù hợp và không đáp ứng nhu cầu của trẻ, trẻ em có thể bỏ học hoặc không đi học. Nếu cha mẹ của trẻ thấy rằng giáo dục không phù hợp hoặc không quan trọng đối với trẻ khuyết tật thì họ sẽ không gửi con đến trường. Giáo dục hòa nhập không chỉ đơn giản là đưa trẻ khuyết tật vào trong lớp học. Giáo dục hòa nhập có nghĩa là nhà trường áp dụng phương pháp tiếp cận lấy trẻ làm trung tâm nhằm đáp ứng nhu cầu của trẻ, bất kể là người khuyết tật hay bất cứ đặc điểm nào khác có thể ảnh hưởng đến kết quả học tập. Trên thực tế vẫn còn nhiều định kiến, phân biệt đối xử và sự cách biệt giữa học sinh bình thường và học sinh khuyết tật.
Năng lực giáo viên vẫn tiếp tục là vấn đề cần cải thiện. Những năm gần đây, giáo viên đã đổi mới phương pháp dạy nhưng chưa đáp ứng yêu cầu, chưa tạo hứng thú cho học sinh. Một số ít giáo viên còn có thái độ ngại dạy học sinh học kém, học sinh khuyết tật. Năng lực và hiểu biết về giáo dục hòa nhập cho học sinh khuyết tật còn thiếu, chưa được bồi dưỡng một cách hệ thống. Ngoài ra, các định mức nói riêng và chính sách đãi ngộ cho giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục nói chung chưa được điều chỉnh kịp thời, chưa theo kịp đòi hỏi thực tế nên có ảnh hưởng tiêu cực đến tính năng động và tâm huyết của họ, đặc biệt khi phải dạy lớp đông, chấm nhiều bài. Chính sách đãi ngộ cho giáo viên lớp có học sinh khuyết tật học hòa nhập chưa tương xứng với công sức của giáo viên bỏ ra. Cùng với đó là “bệnh” chạy theo thành tích vẫn còn diễn ra trong việc xét hoàn thành chương trình lớp học đã làm cho giáo viên phải tiếp nhận một số học sinh kém, làm tăng nguy cơ bỏ học của những học sinh này do các em thường gặp rất nhiều khó khăn khi theo chương trình học cao hơn, từ đó làm cho các em chán học và có nguy cơ bỏ học cao.
Các rào cản này ảnh hưởng không nhỏ đến cơ hội đi học và duy trì việc học ít nhất là đến khi hoàn thành cấp học, đến điều kiện học tập cũng như làm tăng các thách thức đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.