Người vận chuyển phải mẫn cán để trước và khi bắt đầu chuyến đi, tàu biển có đủ khả năng đi biển, có thuyền bộ thích hợp, được cung ứng đầy đủ trang thiết bị và vật phẩm dự trữ....để vận chuyển hàng hóa có đủ các điều kiện nhận, vận chuyển và bảo quản hàng hóa. Vậy giới hạn trách nhiệm, miễn trách nhiệm người vận chuyển được quy định như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Giới hạn trách nhiệm, miễn trách nhiệm người vận chuyển:
1.1. Giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển:
Căn cứ Điều 152 Văn bản hợp nhất 25/VBHN-VPQH 2018 hợp nhất Bộ luật Hàng hải Việt Nam thì giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển hàng hóa bằng đường biển như sau:
– Trong trường hợp tính chất, giá trị của hàng hóa không được người giao hàng khai báo trước khi bốc hàng hoặc là không được ghi rõ trong vận đơn, giấy gửi hàng đường biển hoặc chứng từ vận chuyển khác thì người vận chuyển sẽ chỉ có nghĩa vụ bồi thường mất mát, hư hỏng hàng hóa hoặc là tổn thất khác liên quan đến hàng hóa trong giới hạn tối đa tương đương với 666,67 đơn vị tính toán cho mỗi một kiện hoặc cho mỗi đơn vị hàng hóa hoặc là 02 đơn vị tính toán cho mỗi kilôgam trọng lượng cả bì của số hàng hóa bị mất mát, hư hỏng tùy theo số giá trị nào cao hơn. Lưu ý rằng:
+ Đơn vị tính toán quy định trong Bộ luật này là đơn vị tiền tệ do Quỹ tiền tệ quốc tế xác định và sẽ được quy ước là Quyền rút vốn đặc biệt.
+ Tiền bồi thường được chuyển đổi thành tiền Việt Nam theo tỷ giá ở tại thời điểm thanh toán bồi thường.
– Khi container hoặc công cụ tương tự được dùng để đóng hàng hóa thì mỗi kiện hoặc đơn vị hàng hóa đã ghi ở trong chứng từ vận chuyển, đã đóng vào công cụ được coi là một kiện hoặc 01 đơn vị hàng hóa đã nêu trên. Trường hợp chứng từ vận chuyển không ghi rõ số kiện hoặc là đơn vị hàng hóa thì container hoặc công cụ đó chỉ được xem là 01 kiện hoặc 01 đơn vị hàng hóa.
– Trong trường hợp chủng loại và giá trị hàng hóa được người giao hàng khai báo trước khi mà bốc hàng và được người vận chuyển chấp nhận, ghi vào chứng từ vận chuyển thì khi đó người vận chuyển chịu trách nhiệm bồi thường mất mát, hư hỏng hàng hóa trên cơ sở giá trị đó theo nguyên tắc sau đây:
+ Đối với hàng hóa bị mất mát thì sẽ bồi thường bằng giá trị đã khai báo;
+ Đối với hàng hóa bị hư hỏng thì sẽ bồi thường bằng mức chênh lệch giữa giá trị khai báo và giá trị còn lại của hàng hóa.
+ Giá trị còn lại của hàng hóa được xác định trên cơ sở giá thị trường tại thời điểm và địa điểm dỡ hàng hoặc là lẽ ra phải dỡ hàng; nếu không xác định được thì căn cứ vào giá thị trường tại thời điểm và địa điểm bốc hàng cộng thêm khoản chi phí vận chuyển đến cảng trả hàng.
– Trách nhiệm của người vận chuyển đối với việc chậm trả hàng được giới hạn số tiền bằng với hai phẩy năm lần giá dịch vụ vận chuyển của số hàng trả chậm, nhưng sẽ không vượt quá tổng số giá dịch vụ vận chuyển phải trả theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển.
1.2. Miễn trách nhiệm người vận chuyển:
Căn cứ Điều 151 Văn bản hợp nhất 25/VBHN-VPQH 2018 hợp nhất Bộ luật Hàng hải Việt Nam thì quy định về miễn trách nhiệm người vận chuyển hàng hóa bằng đường biển như sau:
– Người vận chuyển không phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với mất mát, hư hỏng hàng hóa do việc tàu biển không có đủ khả năng đi biển, nếu đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của người vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Ở trường hợp này, người vận chuyển có nghĩa vụ chứng minh đã thực hiện các nhiệm vụ một cách mẫn cán.
– Người vận chuyển được miễn hoàn toàn trách nhiệm, nếu như tổn thất hàng hóa xảy ra trong trường hợp sau đây:
+ Lỗi của thuyền trưởng, thuyền viên, hoa tiêu hàng hải hoặc là người làm công của người vận chuyển trong việc điều khiển hoặc quản trị tàu;
+ Hỏa hoạn không do chính người vận chuyển gây ra;
+ Thảm họa hoặc là tai nạn hàng hải trên biển, vùng nước cảng biển mà tàu biển được phép hoạt động;
+ Có thiên tai;
+ Có chiến tranh;
+ Hành động xâm phạm trật tự và an toàn công cộng mà bản thân người vận chuyển không có gây ra;
+ Hành động bắt giữ của người dân hoặc cưỡng chế của Tòa án hoặc là cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác;
+ Hạn chế về vấn đề phòng dịch;
+ Hành động hoặc là sự sơ suất của người giao hàng, chủ sở hữu hàng, đại lý hoặc đại diện của họ;
+ Đình công hoặc các hành động tương tự khác của người lao động do bất kỳ nguyên nhân nào làm cho đình trệ hoàn toàn hoặc một phần công việc;
+ Bạo động hoặc là gây rối;
+ Hành động cứu người hoặc là cứu tài sản trên biển;
+ Hao hụt về khối lượng, trọng lượng hoặc là mất mát, hư hỏng khác của hàng hóa xảy ra do chất lượng, khuyết tật ẩn tỳ hoặc khuyết tật khác của hàng hóa;
+ Hàng hóa không được đóng gói đúng với quy cách;
+ Hàng hóa không được đánh dấu ký, mã hiệu đúng quy cách hoặc là không phù hợp;
+ Khuyết tật ẩn tỳ của tàu biển mà những người có trách nhiệm không phát hiện được, mặc dù là đã thực hiện nhiệm vụ một cách mẫn cán;
+ Bất kỳ nguyên nhân nào khác xảy ra mà người vận chuyển không có lỗi hoặc là không cố ý gây ra tổn thất hoặc không phải do người làm công, đại lý của người vận chuyển có lỗi gây ra. Trong trường hợp có người được hưởng quyền miễn hoàn toàn trách nhiệm của người vận chuyển theo quy định của pháp luật hoặc là theo sự thỏa thuận ghi trong hợp đồng thì người đó phải chứng minh rằng chính người vận chuyển đã không có lỗi, không cố ý hoặc là những người làm công, đại lý của người vận chuyển cũng không có lỗi hoặc là không cố ý gây ra sự mất mát, hư hỏng của hàng hóa.
– Chậm trả hàng là việc hàng hóa không được trả trong khoảng thời gian đã thỏa thuận theo hợp đồng hoặc là trong khoảng thời gian hợp lý cần thiết mà người vận chuyển mẫn cán sẽ có thể trả hàng đối với trường hợp không có thỏa thuận. Người vận chuyển sẽ không phải chịu trách nhiệm đối với việc chậm trả hàng trong trường hợp sau đây:
+ Đi chệch tuyến đường khi mà đã có sự chấp thuận của người giao hàng;
+ Các nguyên nhân bất khả kháng;
+ Phải cứu người hoặc là trợ giúp tàu khác đang gặp nguy hiểm khi tính mạng con người trên tàu có thể bị đe dọa;
+ Cần thời gian để cấp cứu cho thuyền viên hoặc là người trên tàu.
2. Những trường hợp không được giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển:
Điều 153 Văn bản hợp nhất 25/VBHN-VPQH 2018 hợp nhất Bộ luật Hàng hải Việt Nam quy định về mất quyền giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển, Điều này quy định mất quyền giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển như sau:
– Người vận chuyển mất quyền giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển đã nêu rõ ở mục trên nếu người khiếu nại chứng minh được mất mát, hư hỏng hàng hóa là hậu quả do chính người vận chuyển đã có hành vi cố ý gây mất mát, hư hỏng, chậm trả hàng hoặc là cẩu thả và biết rằng việc mất mát, hư hỏng hoặc chậm trả hàng đó có thể xảy ra.
– Người làm công, đại lý của người vận chuyển thực hiện với chủ định gây ra mất mát, hư hỏng hàng hóa, chậm trả hàng hoặc là cẩu thả và biết rằng việc mất mát, hư hỏng hoặc là chậm trả hàng đó sẽ có thể xảy ra cũng không được giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển hàng hóa bằng đường biển đã nêu ở mục trên.
Như vậy, theo quy định trên thì các trường hợp không được giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển gồm những trường hợp dưới đây:
– Người khiếu nại chứng minh được mất mát, hư hỏng hàng hóa là hậu quả do chính người vận chuyển đã có hành vi cố ý gây mất mát, hư hỏng, chậm trả hàng
– Người khiếu nại chứng minh được mất mát, hư hỏng hàng hóa là hậu quả do người vận chuyển đã có hành vi cẩu thả và biết rằng việc mất mát, hư hỏng hoặc chậm trả hàng đó có thể xảy ra.
Ngoài ra, nếu trường hợp người làm công, đại lý của người vận chuyển thực hiện với chủ định gây ra các mất mát, hư hỏng hàng hóa, chậm trả hàng hoặc là cẩu thả và biết rằng việc mất mát, hư hỏng hoặc là chậm trả hàng đó có thể xảy ra thì trường hợp này cũng không được giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển.
Những văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Văn bản hợp nhất 25/VBHN-VPQH 2018 hợp nhất Bộ luật Hàng hải Việt Nam.
THAM KHẢO THÊM: