Kiêu binh nổi loạn là một đoạn trích từ tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của nhóm tác giả Ngô Gia văn phái. Sau đây là dàn ý phân tích Kiêu binh nổi loạn theo bài viết của Luật Dương Gia, các bạn cùng tham khảo
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích Kiêu binh nổi loạn
1.1. Giới thiệu:
Giới thiệu tác giả, tác phẩm và đoạn trích.
1.2. Phân tích chi tiết:
* Nội dung chính và chủ đề:
– Nội dung chính: Đoạn trích kể về việc kiêu binh nổi loạn, giết chết Quận Huy, phế Trịnh Cán để lập Trịnh Tông làm chúa.
– Chủ đề: tái hiện lại tình cảnh khủng hoảng của xã hội lúc bấy giờ.
* Phân tích chủ đề:
a. Những âm mưu của Trịnh Tông:
– Trịnh Tông nghe theo lời xúi giục của Dự Vũ và Gia Thọ lên kế hoạch lật đổ Quận Huy.
– Trịnh Tông cho người làm cơm mời rượu, rồi khích động tinh thần của đám kiêu binh.
=> Trịnh Tông, Dự Vũ và Gia Thọ là những kẻ hèn nhát, “ném đá giấu tay”, mượn tay người để làm được việc của mình.
b. Diễn biến cuộc nổi loạn:
– Trước khi nổi loạn:
+ Bằng Vũ khởi xướng, đứng đầu, là kẻ điêu toa, chuyên xui nguyên giục bị.
=> Lời nói của Bằng Vũ càng khiến cho tinh thần của đám kiêu binh trở nên sục sôi.
+ Quận Huy biết tai họa xảy ra nhưng vẫn không nâng cao cảnh giác, cho đó là tin đồn nhảm.
=> Không đề phòng, thiếu mưu lược.
– Trong cuộc nổi loạn:
– Hành động của đám kiêu binh:
+ Bằng Vũ đánh ba hồi, báo hiệu cho đám kiêu binh.
=> Thực hiện theo đúng kế hoạch và lời thề đã bàn tính trước.
+ Đám kiêu binh tức thì nhảy nhót hăng hái, xô lấn vào trong phủ.
+ Đập phá, tấn công vô cùng mạnh bạo.
+ Dùng câu liêm móc cổ Quận Huy kéo xuống, đánh đấm túi bụi, giết chết tại chỗ. Đồng thời lấy gạch đập vỡ đầu Hoàng Lương rồi vứt xuống hồ Thủy Quân.
=> Hành động vô cùng ghê rợn, tàn nhẫn, cho thấy sức mạnh kinh hoàng của đám đông.
– Tâm trạng của Quận Châu khi đứng trước sự uy hiếp của đám kiêu binh: run sợ, phải chạy đến mở cửa.
– Hành động của Quận Huy:
+ Giương cung định bắn nhưng bị đứt dây, vớ súng nạp đạn nhưng mồi lửa tịt không cháy.
=> Quận Huy biết được sự việc diễn ra nhưng không có sự đề phòng, chuẩn bị, coi thường kẻ địch, đám đông. Cuối cùng, phải nhận lấy kết cục bi thảm.
–> Kết cục của cuộc nổi loạn:
– Anh em Quận Huy chết, Trịnh Tông lên ngôi chúa.
* Sau khi cuộc nổi loạn diễn ra:
– Đám kiêu binh vẫn lộng hành, bức ép chúa cũ, trả thù các đại thần vô cùng tàn nhẫn.
– Trịnh Tông bất lực, không thể kiểm soát, sai người lén đến bắt phứa dân thường để chém ra oai. Tuy nhiên, việc lùng người để giết vẫn xảy ra.
=> Trịnh Tông đứng đầu nhưng không có tài cán, không thể kiểm soát được tình hình.
* Giá trị nội dung và nghệ thuật:
a. Nội dung:
– Tác phẩm đã tái hiện lại một giai đoạn lịch sử đầy hỗn loạn vào thời Trịnh Sâm.
– Đồng thời, tác phẩm còn cho thấy sức mạnh của đám đông. Đám đông có thể đưa một người lên cao nhưng cũng có thể phế truất họ bất cứ lúc nào.
– Bài học về sự đề phòng, cảnh giác trước nanh vuốt của kẻ thù.
b. Nghệ thuật:
– Yếu tố tự sự kết hợp với miêu tả khiến câu chuyện hiện lên một cách sinh động, cụ thể.
– Lối kể hấp dẫn, các sự kiện được kể theo trình tự hợp lí, rành mạch.
– Biện pháp nghệ thuật so sánh, đối lập độc đáo.
– Nhân vật được xây dựng thông qua lời nói và hành động.
1.3. Đánh giá:
Khẳng định lại giá trị của đoạn trích.
2. Tóm tắt Kiêu binh nổi loạn:
“Kiêu binh nổi loạn” trong Hoàng Lê nhất thống chí thể hiện sự thối nát trong phủ chúa Trịnh lúc bấy giờ: tranh giành quyền lực, việc phế con trưởng lập con thứ hoàn toàn do quyền lợi ích kỉ của phe đảng, không vì quyền lợi của đất nước, của nhân dân. Tất cả sự nổi loạn, tàn bạo của đám kiêu binh “căm ghét”, “hậm hực” khinh bỉ cách làm của chúa Trịnh và quận Huy, chỉ muốn diệt trừ cho hả giận đã thể hiện cụ thể, sống động. Nó cho thấy sức mạnh của đám đông có thể làm nổi thuyền, làm lật thuyền.
3. Phân tích chi tiết Kiêu binh nổi loạn:
Thời kỳ văn học trung đại Việt Nam là một bề dày của lịch sử, là những tinh túy của con người thế hệ đi trước trải nghiệm cuộc sống của giai đoạn trung cổ viết lại và lưu truyền cho đến ngày nay. Trong đó, “Hoàng lê nhất thống chí” của Ngô gia văn phái là một trong những tác phẩm vô cùng đặc sắc. Nó viết lại hết những dữ dội của dòng chảy lịch sử trung đại, khái quát lên khung cảnh đầy dãy những sự tranh đoạt đẫm máu để tranh giành quyền lực thống trị thiên hạ. Đoạn trích “Kiêu binh nổi loạn” trong tác phẩm này đã lột tả hết được sự thối nát, suy tàn của Phủ chúa Trịnh: chỉ vì ngôi báu thống trị thiên hạ mà cha, con, anh, em nổi máu tham lam đấu đá, cấu xé nhau chỉ vì quyền lực. Sự thối nát, tranh đoạt đến mức việc phế chuất con trưởng lập con thứ thay quyền thống trị. Lợi ích, chia bè kết phái để thảo mãn lòng tham của bản thân, bị lợi ích che mờ con mắt khiến đất nước rơi vào lầm than. Con dân khổ cực chăm bề, loạn lạc, rối ren khiến cho tình hình đất nước rơi vào mất kiểm soát.
Đọc đoạn trích, có thể thấy rõ hoàn cảnh bấp bênh một mất một còn thông qua cuộc tranh quyền đoạt vị ấy nhưng người đang bị thất thế khiến cho mạng sống khó được bảo toàn của Trịnh Tông, phải nhờ đến sự trợ lực của mẹ là Thái phi họ Dương che chở trước sự đe dọa quận Huy mới tạm thời dập bớt mối nguy nan.
Điều dẫn tới sự nổi loạn của lính kiêu binh là bởi vì họ là người thuộc phe của Trịnh Tông. Ông ta mà bị diệt khẩu thì họ cũng khó giữ lại được hơi tàn của mạng sống. Số phận thuộc “thuận nước thì đẩy thuyền, thuyền chìm là mất mạng” số phận đám tôi tớ, gia thần, binh lính của triều đại phong kiến là vậy. Hễ chỗ nào có lợi thì theo, chủ tử mà mất mạng thì đến phận như họ cũng khó mà tồn tại. Điều đó được lột tả qua hàng loạt nhân vật như: Dự Vũ, đầu bếp của Tông; Gia Thọ là gia thần, Bằng Vũ là gia binh. Chúng đều có một nỗi uất hận và căm phẫn quận Huy – kẻ thù quyết không đội trời chung của chúng. Lời nói của Dự Vũ, Gia Thọ đều có tính chất xúi giục, hậu thuẫn cho Tông làm phản. Tông mời cơm ngỏ ý chỉ là một biểu hiện phó thác chính thức, lái mũi nhọn chĩa vào quận Huy.
Khung cảnh đẫm mùi “thuốc súng” đến như vậy, chỉ qua lời nói của nhân vật Dự Vũ thôi là có thể hiểu nỗi lòng “căm ghét”, “hậm hực”, và toát lên được mục đích cùng nhau nổi loạn của kiêu binh để có thể trả thù, rửa hận, tận lòng muốn “diệt cỏ tận gốc” để hả hê được lòng căm phẫn quyết “không đội tròi chung” với kẻ họ ghét cay ghét đắng.
Lòng người là cái động không đáy, điều đó được thể hiện qua sự can thiệp của đám quý tộc quyền hành, thân tộc trong phủ điển hình như quận Viêm, con của hắn là Chiếu lĩnh bá, quận Hoàn, Thánh mẫu… vì lợi ích của bản thân mà a dua nịnh nọt, thả ra những lời ong bướm, mật rót vào tai ôm chân kẻ có quyền thế. Nhưng những điều ấy để làm gì, là để lấy công, lấy được sự tín nhiệm và thừa cơ đó mà vơ hết lợi lộc lại để tận hưởng. Tiêu biểu cho thái độ bàng quan là Viêm quận công. Tiêu biểu cho thái độ hớt công là Bùi Bật Trực và Chiếu lĩnh bá. Nhờ có sự can thiệp này mà chúng ta có thể nhận rõ được sự lụi bại của phủ Chúa.
Đoạn trích hiện như một bức tranh sinh động khi miêu tả chân thực của cuộc hỗn chiến của binh lính. Qua hình ảnh của cuộc chiến, ta có thể nhận thấy rằng uy lực của họ thật mạnh. Lòng căm phẫn vì nhục mạ, khinh nhãi lại họ mà họ cùng nhau nổi loạn để rửa thù, gạt hận, cùng nhau thống nhất chung sức chiến đấu. Cuộc chiến hiện lên như một dấu chấm đỏ rực soi sáng sự kiện lịch sử năm đó. Qua việc xúi giục, “đẩy thuyền” Trịnh Tông, họ dàn dựng kế hoạch, bầu người người thủ lĩnh cùng vạch sẵn kế hoạch để nổi loạn, không cần có người dật dây để họ làm vậy. Trịnh Tông chỉ là kẻ hùa theo cùng họ, vì Y hiện tại chả khác gì một con bù nhìn rơm, chỉ đâu đánh đó. Khi có tiếng trống vang lên, quân lính “nhảy nhót, hang hái, cầm binh khí xô lấn vào phủ”, “họ reo hò quát long trời lở đất”.
Đến bối cảnh tiêu diệt được quận Huy, ta có thể hình dung được sức mạnh của cuộc nổi loạn này mạnh mẽ đến đây. Họ dấy lên dạo Châu. Thoạt đầu, họ vẫn còn theo thói cũ là phục tục nghe mệnh lệnh, vì họ lúc bấy giờ vẫn còn đề phòng và sợ quận Huy, song chỉ được một lúc thì họ dấy lên phản loạn, họ nhao nhao lên như bày kiến vỡ tổ bâu lấy “chân voi”, họ bao vây dùng gạch ngói để tấn công voi chiến của quận Huy, dùng câu liêm kéo quản tượng xuống giết, rồi họ kéo quận Huy xuống trừ khử, mổ bụng để lấy gan ăn sống và cùng lúc đó lấy đá đè chết em quận Huy. Tất cả thêu dệt lên một bức tranh sinh động như thật diễn ra ngay trước mắt người đọc, cảm giác mọi thứ cứ như đang diễn ra, sự mạnh mẽ vùng lên đòi “công đạo”, tiếng hò reo cứ như đang diễn ra thật y như hiện tại đang tiếp diễn. Tất cả sự bạo loạn ấy diễn ra cụ thể và thể hiện sức mạnh của đám đông và từ đó thể hiện một điều “có thể nâng lên được thì cũng có thể dìm xuống được”.
Có thể thấy Trịnh Tông chỉ là con rối trong tay kiêu binh. Chỉ của Thánh mẫu chỉ là bản viết tức thời trước việc đã rồi. Lúc kiêu binh thừa thế đốt phá, trả thù riêng, “Tông hạ chỉ ngăn cấm mà họ vẫn không thôi” chứng tỏ Tông chẳng có chút uy quyền nào cả. Khi chúa vờ giết phứa “một người thường dân” thì việc phá phách mới tạm ngừng, nhưng việc bắt người vẫn đang tiếp tục. Đoạn văn đã cho thấy làn sóng nổi loạn của quân lính và số phận bèo bọt của một vương triều, chứng tỏ sự thối nát của một chế độ.
Qua bút pháp tả thực, có thể nhận thấy sự bi hài của một khoảng lịch sử trung đại của dân tộc ta. Bi ở đây là sau trận chiến đấu đá để tranh quyền đoạt vị của gia tộc đế vương khiến cho đất nước lầm than, loạn lạc, tệ nạn xã hội lộng hành khiến khung cảnh tiêu điều mà tan tác. Hài ở đây là Nước có người thống trị nhưng chỉ là hình thức. Kẻ được cho là thiên tử kia chả khác gì bù nhìn, không quyền, không thế. Tưởng rằng sau trận chiến tranh đoạt ngôi vị thì có thể “một tay che trời” ấy vậy mà giờ đây chả khác gì món đồ vật cho kẻ khác mua vui.
Ngòi bút biên sử chân thật như những thước phim đặc sắc nhưng mang lại nhiều những giá trị của một biên niên đại, qua những giá trị đó ta có thể hiểu hết được một khoảng thời gian cai trị như không của chúa Trịnh Tông, một khung cảnh tàn thương của một đất nước. Qua đó, ta cũng thấy sự mỉa mai của tác giả cho những kẻ mưa quyền đạt lợi nhưng không thể đạt được mục đích vì chính quyền đã quá thối nát. Một bộ máy cai trị đang trong kỳ “hấp hối chờ chết”. Ấy nhưng cũng có lẽ là một niềm hy vọng le lói của tác giả mong muốn có một tương lai tốt đẹp thay thế cho khung cảnh lụi tàn của một triều đại suy vong ?