Nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa được ra đời trong hoàn cảnh nào? Nhân dân ta đã chuẩn bị những gì cho sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa? Sự ra đời của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mang ý nghĩa như thế nào? Bài viết dưới đây sẽ giải đáp thắc mắc đó.
Mục lục bài viết
1. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời như thế nào?
1.1. Hành trình tìm con đường giải phóng dân tộc:
Hồi tưởng quay về khoảng thời gian về năm 1858, cách đây không lâu, thực dân Pháp đã sử dụng vũ khí xâm lược vào Việt Nam. Mặc dù phong trào kháng chiến của nhân dân phát triển mạnh mẽ, triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã phải đối diện với tình trạng khủng hoảng và vô vọng, cuối cùng bị đánh bại và ký kết Hiệp ước Giáp Thân năm 1884, phải làm tay sai cho kẻ thù. Kết quả, thực dân Pháp thực hiện chính sách áp bức và cai trị “nô dịch” đối với Việt Nam, gây ra nhiều tổn thất và khổ cực trong cuộc sống của nhân dân.
Tuy nhiên, không có bất kỳ sự đàn áp nào có thể đánh bại tinh thần quật khởi yêu nước của người dân Việt Nam. Những cuộc đấu tranh dũng cảm của nhiều tầng lớp nhân dân đã tiếp tục diễn ra, ví dụ như phong trào Cần Vương (cuối thế kỷ 19), khởi nghĩa nông dân (cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20), phong trào dân tộc theo hướng dân chủ tư sản (đầu thế kỷ 20)… Dù với nhiều nguyên nhân khác nhau cả từ phía cá nhân và xã hội, những phong trào này đều đối mặt với thất bại và chìm trong biển máu.
Trải qua những tổn thất và hy sinh lớn do sự đàn áp của chủ nghĩa thực dân, khát vọng về hòa bình, độc lập và tự do của người dân Việt Nam trở nên ngày càng mãnh liệt. Tuy nhiên, để biến khát vọng này thành hiện thực, cách mạng cần phải thay đổi hướng đi, thích ứng với sự thay đổi lớn trong thời đại, đặc biệt sau khi Cách mạng Tháng Mười tại Nga thành công vào năm 1917.
Vào năm 1920, sau nhiều năm hoạt động đấu tranh trên khắp thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc đó tên gọi Nguyễn Ái Quốc) đã tìm thấy lối đi để cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam: con đường cách mạng vô sản theo chủ nghĩa Mác – Lênin do Đảng Cộng sản – tổ chức lãnh đạo của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Sau một quá trình vận động tích cực, vào ngày 3/2/1930, dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra đời, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trên con đường đấu tranh cho độc lập và tự do.
Với phương pháp chính xác, sáng tạo và kết hợp, cùng với việc đề cao tầm quan trọng của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã hợp nhất và dẫn dắt người dân trong cuộc chiến đấu cách mạng 1930 – 1931, vận động dân chủ 1936 – 1939, đặc biệt là vận động chiếm quyền lực trực tiếp (1939 – 1945). Tất cả nhằm mục tiêu cao cả nhất: đoàn kết tất cả các tầng lớp yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, trẻ già, nam nữ, tôn giáo và hướng chính trị, cùng nhau mưu cầu giải phóng và tồn tại dân tộc.
Từ năm 1941, việc chuẩn bị mọi mặt cho “cuộc giải phóng” diễn ra rộng khắp, từ miền Nam đến miền Bắc, từ thành thị đến nông thôn, từ xây dựng cơ sở, củng cố lực lượng chính trị và vũ trang đến tổ chức mặt trận đoàn kết cứu nước… Chưa bao giờ, khát vọng hòa bình và tình thần cách mạng lại phát lên mạnh mẽ đến như vậy. Cả đất nước như một mảnh cỏ khô, chỉ cần một ngọn lửa nhỏ là có thể bùng cháy, thiêu đốt bè lũ xâm lược và kẻ thù.
1.2. Cách mạng Tháng Tám thành công:
Vào tháng 8/1945, quân đội Nhật phát xít đầu hàng cho phe Đồng minh. Quân đội và chính quyền tay sai rơi vào tình trạng hoang mang và bất lực. Lúc đó, cơ hội “ngàn năm có một” đã đến, Trung ương Đảng đã quyết định phát động cuộc Tổng khởi nghĩa để giành quyền lực trên toàn quốc. Tinh thần của cuộc nghĩa là: bất kể hi sinh đến đâu, thậm chí phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải kiên định bảo vệ độc lập.
Nhận theo lệnh, toàn bộ dân tộc nổi dậy như “bão táp”. Chỉ trong vòng 15 ngày, từ ngày 14 đến 28/8, cuộc Tổng khởi nghĩa đã chiến thắng hoàn toàn. Lần đầu tiên trong lịch sử, quyền lực chính quyền cả nước thực sự nằm trong tay nhân dân.
Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, trước hàng chục ngàn người dân Thủ đô, Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại diện cho Chính phủ cách mạng tạm thời, đã long trọng tuyên bố Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Đây là kết quả của cuộc cách mạng hoàn toàn xứng đáng sau một quá trình chiến đấu dài, khắc nghiệt, đúng như lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do. Dân tộc đó phải được độc lập.
2. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử:
Vào ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, trước cuộc diễu hành của hàng chục ngàn người dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh, thay mặt Chính phủ lâm thời, đã trọng trọng đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và cả thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời- Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á.
Vào ngày 19/8/1945, Hà Nội giành lại quyền lực cho tay nhân dân. Ngày 22/8/1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh trở về Hà Nội sau thời gian ở Tân Trào. Ngày 25/8, Người đã quay trở lại số nhà 48 Hàng Ngang để chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung ương Đảng, nơi đưa ra các quyết định quan trọng về đối nội, đối ngoại; chuẩn bị công bố danh sách thành viên của Chính phủ lâm thời và Tuyên ngôn Độc lập…
Vào ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và cả thế giới: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời – đây là nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.”
Cuộc Cách mạng tháng Tám đã chiến thắng vang dội và Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 đã khẳng định rằng nước ta hoàn toàn độc lập. Dân tộc ta từ tình trạng nô lệ đã được nâng lên, xứng đáng được hưởng cuộc sống tự do, hạnh phúc và tự quyết vận mệnh của mình.
Bản Tuyên ngôn khởi đầu bằng những lời trích từ Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Hoa Kỳ: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.” Sau đó, câu trích từ Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi…” Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kể đến những tư tưởng “đỉnh cao” mà nhân dân Pháp và Mỹ đã đánh đổi bằng xương máu và nước mắt. Điều này thể hiện tầm nhìn văn hóa-chính trị sâu sắc và rất nhân văn của lãnh đạo Hồ Chí Minh, người lính cộng sản chân thành. Đây là sự thông suốt về chính trị và sự nhạy bén về thế giới, hướng tới việc giành được độc lập, tự quyết cho dân tộc – điều khó khăn, nhưng để đạt được sự công nhận và tôn trọng quốc tế cho độc lập, lại càng khó khăn hơn nhiều.
Là người luôn hiểu rõ bối cảnh lịch sử, trong thời điểm đó, các thế lực thực dân và đế quốc đã cố gắng tiêu diệt chính quyền cách mạng còn non trẻ của Đảng và dân tộc Việt Nam.
Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 khẳng định quyền cơ bản của con người và quyền của các dân tộc. Điều này có ý nghĩa to lớn, vì sau cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Hai, các nước thuộc địa và phụ thuộc chưa được bảo vệ bởi luật pháp quốc tế. Với Bản Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh đã góp phần xây dựng một bước ngoặt sáng trong lịch sử luật pháp quốc tế, giá trị của nó vẫn tồn tại cho đến hôm nay và tương lai.
Bản Tuyên ngôn khẳng định rằng khi Pháp rút lui, Nhật đầu hàng Đồng minh, vua Bảo Đại thoái vị, nhân dân trên toàn quốc đã nhân cơ hội, đoàn kết để đánh đổ xiềng xích của thực dân kéo dài hơn 80 năm và chế độ quân chủ phong kiến tàn bạo, lập nên chế độ dân chủ cộng hòa
3. Ý nghĩa lịch sử của sự ra đời Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa:
Sự ra đời của Nhà nước Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2/9/1945 đã trở thành nền tảng cơ bản để đảm bảo sự vững chắc của nền độc lập và tự do mà dân tộc Việt Nam đã mong muốn và mới vừa đạt được. Từ đây, một giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc đã bắt đầu: giai đoạn của sự giải phóng dân tộc đồng thời với sự giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, một giai đoạn liên quan đến sự phát triển của chủ nghĩa xã hội.
Thực tế cho thấy, ngay sau khi được thành lập, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thể hiện rõ bản chất cách mạng của mình, là một Nhà nước thuộc về nhân dân, được nhân dân lập nên và phục vụ cho nhân dân. Không lâu sau khi ra đời, Chính phủ Cách mạng lâm thời đã tổ chức cuộc bầu cử Quốc hội (6/1/1946) và Hội đồng Nhân dân các cấp để củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, xây dựng cơ sở vững chắc cho chế độ mới, tạo ra khung pháp lý vững chắc để phản bác những thông điệp sai lệch và những hành động của các thế lực thù địch đang cố gắng phục hồi ách đô hộ trên đất nước của chúng ta.
Trong bối cảnh hai cuộc kháng chiến chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 – 1975), trong việc thể hiện ý chí và quyết tâm bảo vệ sự độc lập và tự do, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn khẳng định: “Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “Không có gì quý hơn độc lập tự do”…
Thành công của Cách mạng Tháng Tám và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945 đã thêm một động lực quan trọng và tạo động lực mạnh mẽ cho phong trào giải phóng dân tộc trên khắp thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Các dân tộc ở các vùng đất thuộc địa và nửa thuộc địa đã rút ra một bài học quý báu từ cuộc cách mạng ở Việt Nam: trong thế giới ngày nay, một dân tộc nhỏ bé nếu có quyết tâm chiến đấu cho sự độc lập, tự do, với chiến lược đúng đắn, khả năng tận dụng cơ hội và nhất là việc khai thác mọi thời cơ để nổi dậy, thì hoàn toàn có khả năng tự giải phóng khỏi ách đế quốc thực dân, xây dựng một chế độ mới và tiêu diệt mọi áp bức và bất công.