Trong cuộc sống thường ngày hiện nay khi nền kinh tế thị trường ngày càng được mở rộng thì để có thể bắt gặp một giao dịch thì được xem là điều khá phổ biến. Khi tham gia vào giao dịch dân sự muốn có hiệu lực thì cần phải tuân thủ các quy định của pháp luật. Vậy giao dịch vô hiệu là gì? Giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu?
Mục lục bài viết
1. Giao dịch vô hiệu là gì?
1.1. Khái niệm về giao dịch vô hiệu:
Trước khi đi vào tìm hiểu về khái niệm và các nội dung liên quan đến vấn đề gio dịch vô hiệu thì chúng ta cần phải hiểu một cách sơ lược nhất đó là việc giao dịch vô hiệu và giao dịch dân sự vô hiệu đều được hiểu chung là một nội dung và một khái niệm được quy định trong Bộ luật Dân sự. Do đó, theo như quy định tại điều 121 BLDS giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lí đơn phương là phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Một giao dịch dân sự chỉ được xác lập, thay đổi hay chấm dứt khi có ít nhất là một trong các bên tham gia giao dịch dân sự thể hiện ý chí của mình dưới 1 hình thức nhất định nhằm mục đích ghi nhận, thay đổi, hủy bỏ các quyền và nghĩa vụ dân sự. Tùy từng giao dịch cụ thể mà làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự.
Giao dịch là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất định, cho nên giao dịch dân sự là hành vi mang tính ý chí của chủ thể tham gia giao dịch, với những mục đích và động cơ nhất định. Do vậy, giao dịch dân sự vô hiệu khi không có một trong các điều kiện quy định tại Điều 117
Thứ nhất: Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
Thứ hai: Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
Thứ ba: Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Thứ tư: Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.
Thứ năm: Các trường hợp khác do Bộ luật này quy định.
Những quy định về sự vô hiệu của giao dịch dân sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thiết lập trật tự kỷ cương xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và nhà nước; bảo đảm an toàn pháp lý cho các chủ thể trong giao lưu dân sự.
1.2. Phân loại giao dịch dân sự vô hiệu:
Giao dịch dân sự vô hiệu toàn bộ
Giao dịch dân sự vô hiệu toàn bộ xảy ra khi toàn bộ nội dung của giao dịch dân sự đó vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội hoặc một trong các bên tham gia giao dịch đó không có quyền xác lập giao dịch dân sự. Khi đó toàn bộ nội dung của giao dịch đó không có hiệu lực.
Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần
Giao dịch vô hiệu từng phần là giao dịch mà trong đó chỉ có 1 phần hoặc một số phần của giao dịch đó vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại. Khi đó chỉ phần vô hiệu là không có hiệu lực, các phần còn lại vẫn có hiệu lực thi hành.
2. Các trường hợp làm giao dịch dân sự vô hiệu:
Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm xã hội, trái đạo đức xã hội được quy định tại Điều 128 Bộ luật dân sự quy định giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.
Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo được quy định tại Điều 129 Bộ luật Dân sự quy định: “Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo bị vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của bộ luật này”.
Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn được quy định tại Điều 131 Bộ luật Dân sự quy định khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu
Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa được quy định tại Điều 132 Bộ luật Dân sự quy định về việc khi một bên tham gia giao dịch do bị lừa dối, đe dọa thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó bị vô hiệu.
Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế hành vi dân sự xác lập được quy định tại Điều 130 Bộ luật Dân sự quy định về vấn đề khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện.
Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình được quy định tại Điều 133 Bộ luật dân sự quy định về việc người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bó giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm các quy định bắt buộc về hình thức được quy định tại Điều 134 Bộ luật dân sự quy định. Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn, quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch đó vô hiệu.
3. Giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu:
Trên cơ sở quy định tại Điều 137 Bộ luật Dân sự thì hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự vô hiệu được quy định về giao dịch vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ trời điểm xác lập. Do đó, khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.
Thứ nhất, giao dịch dân sự vô hiệu không làm pháp sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao kết
Như vậy khi giao dịch vô hiệu thì quyền và nghĩa vụ của các bên không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Nếu hợp đồng chỉ mới xác lập mà chưa thực hiện thì các bên không được phép thực hiện, còn trường hợp đang thực hiện thì không tiếp tục thực hiện nữa, nếu hợp đồng đã thực hiện thì các bên xử lí tài sản.
Thứ hai, thực hiện việc khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận
Theo pháp luật Việt Nam khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu, các bên phải khôi phục tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì hoàn trả bằng tiền. Thực tế ở nước ta cho thấy, việc hoàn trả cho nhau những gì đã nhận chưa thực sự đảm bảo lợi ích của các chủ thể. Điển hình đối với các giao dịch có đối tượng là nhà, quyền sử dụng đất. Việc xử lí hậu quả giao dịch vô hiệu càng trở nên phức tạp hơn trong trường hợp bên nhận tài sản đã sửa chữa, cải tạo tài sản đó hay nói cách khác là làm tăng giá trị của tài sản đó.
Về quy định tính thành tiền để hoàn trả trong trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật bộ luật quy định như vậy nhưng không nêu rõ khi nào thì “không hoàn trả được bằng hiện vật” và “hoàn trả bằng tiền” thì tính là bao nhiêu? Tính giá hiện vật thành tiền tại thời điểm nào: thời điểm xác lập giao dịch hay thời điểm hoàn trả tài sản. Đối với những tài sản không thay đổi về giá kể từ thời điểm xác lập giao dịch đến lúc giao dịch vô hiệu, việc tính giá tài sản vào thời điểm nào không quan trọng. Tuy nhiên với những tài sản có biến động về giá (có thể tăng hoặc giảm) thì việc xác định thời điểm định giá là rất quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của 2 bên.
Thứ ba, bên gây ra lỗi dẫn đến giao dịch vô hiệu thì cần phải thực hiện việc bồi thường thiệt hại.
Khi giao dịch bị vô hiệu, theo điều 137 Bộ luật Dân sự được quy định đối với bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường. Như vậy để buộc một bên bồi thường thì chúng ta phải xác định đủ 2 yếu tố: một là yếu tố có lỗi, hai là thực tế phải tồn tại thiệt hại. Mức độ bồi thường phụ thuộc vào mức độ lỗi. Bên bồi thường chỉ phải bồi thường thiệt hại do phần lỗi của mình gây ra.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết: