Theo quy định, trong một số trường hợp việc giám hộ sẽ cần phải có sự giám sát để đảm bảo quyền lợi cho người được giám hộ. Vậy giám hộ đương nhiên có cần giám sát giám hộ không?
Mục lục bài viết
1. Quy định của pháp luật về giám hộ:
Theo quy định có thể hiểu căn cứ phát sinh giám hộ là từ luật quy định, được UBND cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc trường hợp người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ lựa chọn một tổ chức hoặc cá nhân làm người giám hộ cho mình thì khi họ ở tình trạng cần được giám hộ. Đồng thời, cá nhân, pháp nhân được lựa chọn là người giám hộ nếu người này đồng ý. Thường thì những người được giám hộ là những người chưa có hoặc không có khả năng tự mình tham gia vào các quan hệ dân sự (chẳng hạn như người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi) nên được người giám hộ đứng ra thay mặt tham gia vào các quan hệ dân sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ, quản lý tài sản, đại diện pháp lý,… cho họ.
Đối với cá nhân khi cử, chỉ định hoặc được lựa chọn trở thành người giám hộ thì cũng cần phải đáp ứng tất cả những điều kiện được quy định cụ thể như sau:
(1) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
(2) Có tư cách đạo đức tốt và các điều kiện cần thiết để thực hiện quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.
(3) Không phải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người bị kết án nhưng chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác.
(4) Không phải là người bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên.
Bộ luật dân sự quy định một cá nhân, pháp nhân có thể giám hộ cho nhiều người, tuy nhiên một người lại chỉ có thể được một người giám hộ, trừ các trường hợp như cha, mẹ cùng giám hộ cho con hoặc ông, bà cùng giám hộ cho cháu.
2. Giám hộ đương nhiên có cần giám sát giám hộ không?
Trong các văn bản pháp luật dân sự, không quy định cụ thể về định nghĩa người giám hộ đương nhiên. Nhưng có thể hiểu người giám hộ đương nhiên cũng có quyền lợi và nghĩa vụ như người giám hộ thông thường đó là thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên và người mất năng lực hành vi dân sự. Tuy nhiên, người chưa thành niên để được giám hộ phải là người không còn hoặc không xác định được cha mẹ hoặc có cha mẹ nhưng cả cha và mẹ đều mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị Toà tuyên bố hạn chế quyền với con chưa thành niên; không có đủ điều kiện để chăm sóc, giáo dục con.
Căn cứ Điều 52 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên được xác định theo thứ tự sau đây:
-Trước tiên, người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên là anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả, trường hợp anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
– Tiếp đến là ông bà nội, ông bà ngoại, nếu người giám hộ không có anh chị ruột. Nếu người được giám hộ không có ông bà nội, ngoại và anh chị em ruột thì người giám hộ đương nhiên tiếp theo là bác, chú, cậu, cô, dì ruột.
Căn cứ Điều 53 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự được quy định như sau:
– Nếu vợ hoặc chồng mất năng lực hành vi dân sự thì người còn lại không mất năng lực hành vi dân sự sẽ giám hộ cho người kia. Trường hợp người thành niên mất năng lực hành vi dân sự chưa có vợ, chồng, con hoặc có mà vợ, chồng, con đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ là người giám hộ.
– Nếu cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một người mất năng lực hành vi dân sự, còn người kia không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con cả là người giám hộ, trường hợp người con cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo là người giám hộ nếu có đủ điều kiện.
Do việc giám hộ ảnh hưởng tới toàn bộ cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của người được giám hộ vậy nên rất cần thiết cần có sự giám sát việc giám hộ. Người giám sát có quyền theo dõi, kiểm tra người giám hộ trong việc thực hiện giám hộ; xem xét, có ý kiến kịp thời bằng văn bản về việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự của người giám hộ cho người được giám hộ và có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giám hộ xem xét thay đổi hoặc chấm dứt việc giám hộ, giám sát việc giám hộ. Việc quy định giám sát giám hộ giúp cho quyền lợi của người được giám hộ được bảo vệ chặt chẽ hơn, tốt hơn.
Căn cứ Điều 51 Bộ luật Dân sự thì người thân thích của người được giám hộ thỏa thuận cử người giám sát việc giám hộ trong số những người thân thích hoặc chọn cá nhân, pháp nhân khác làm người giám sát việc giám hộ, việc cử, chọn người giám sát việc giám hộ phải được sự đồng ý của người đó, nếu việc giám sát giám hộ liên quan đến quan lý tài sản của người được giám hộ thì thì người giám sát phải đăng ký tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ để thực hiện việc giám sát.
Người giám sát việc giám hộ có thể là cá nhân hoặc pháp nhân, nếu là cá nhân thì phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nếu là cá nhân, nếu là pháp nhân thì phải có năng lực pháp luật dân sự phù hợp với việc giám sát và có điều kiện cần thiết để thực hiện việc giám sát. Cá nhân thực hiện việc giám sát giám hộ có thể là người thân thích của người giám hộ bao gồm theo thứ tự sau: Là vợ, chồng, cha, mẹ, con của người được giám hộ; nếu không có ai trong số những người này thì là ông, bà, anh ruột, chị ruột, em ruột của người được giám hộ; nếu cũng không có ai trong số những người này thì người thân thích của người được giám hộ là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người được giám hộ.
Nếu không có những người thân thích nêu trên hoặc những người thân thích không cử, chọn được người giám sát việc giám hộ thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người giám hộ cử cá nhân hoặc pháp nhân giám sát việc giám hộ, nếu có tranh chấp về việc cử, chọn người giám sát việc giám hộ thì Tòa án quyết định.
Từ những quy định trên có thể thấy trong trường hợp giám hộ đương nhiên vẫn cần thiết có giám sát giám hộ, để đảm bảo tối đa quyền lợi của người được giám hộ. Việc giám sát giám hộ là do những người thân thích của người được giám hộ cử hoặc trong trường hợp không thỏa thuận được, không chọn được thì UBND cấp xã cử, có tranh chấp thì Tòa án sẽ quyết định.
3. Thủ tục đăng ký giám hộ:
Việc giám hộ phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về hộ tịch, việc giám hộ đương nhiên vẫn phải đăng ký, cho dù không đăng ký thì vẫn phải thực hiện nghĩa vụ của người giám hộ.
– Hồ sơ cần chuẩn bị để đăng ký giám hộ đương nhiên bao gồm các giấy tờ sau: tờ khai đăng ký giám hộ; giấy tờ chứng minh đủ điều kiện trở thành người giám hộ đương nhiên, văn bản thoả thuận về việc cử một người làm người giám hộ đương nhiên nếu có trong trường hợp có nhiều người đủ điều kiện giám hộ đương nhiên (có công chứng hoặc chứng thực), văn bản uỷ quyền nếu việc đăng ký giám hộ được thực hiện thông qua hình thức uỷ quyền, văn bản lựa chọn người giám hộ khi người được giám hộ lâm vào tình trạng cần được giám hộ (văn bản cần có công chứng hoặc chứng thực tại thời điểm người được giám hộ lựa chọn đang ở trạng thái có năng lực hành vi dân sự đầy đủ).
– Bộ hồ sơ được nộp đến Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người được giám hộ hoặc người giám hộ cư trú.
– Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ khi thấy đủ điều kiện để đăng ký giám hộ công chức tư pháp, hộ tịch sẽ cấp trích lục giám hộ đương nhiên sau khi đã thực hiện việc ghi vào sổ hộ tịch và ký tên vào sổ hộ tịch với người đi đăng ký giám hộ, sau đó thực hiện báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã. Trong trường hợp giám hộ đương nhiên thì người đăng ký giám hộ được miễn lệ phí
Những văn bản sử dụng trong bài viết:
Bộ luật Dân sự năm 2015