Làm sao để nhận biết nạn nhân bị hiếp dâm rồi hay chưa? Làm sao để nhận định thủ phạm đã phá màng trinh của nạn nhân? Làm sao để xác định những dấu hiệu phạm tội hiếp dâm, cưỡng dâm trong y pháp hình sự?
Mục lục bài viết
1. Màng trinh (Hymen):
1.1. Cấu trúc của màng trinh:
Màng trinh như một nếp gấp. Thường có hình tròn ngăn cách âm hộ với phần dưới của âm đạo, bờ tự do của màng trinh là giới hạn của lỗ màng trinh. Giữa bờ bám và các môi nhỏ có rãnh âm hộ màng trinh. Mặt ngoài phủ lớp biểu mô lát tầng từ âm hộ phát triển ra. Mặt trong cũng do lớp biểu mô ấy ở thành âm đạo phát triển tới âm hộ. Xung quanh màng trinh dày, càng gần trung tâm càng mỏng vì ở đây chủ yếu là tổ chức liên kết với sợi tạo chun chiếm ưu thế, ít mạch máu và dây thần kinh, thường có một lỗ ở giữa. Khi màng trinh có nhiều sợi cơ gọi là màng trinh thịt, tổ chức liên kết chiếm ưu thế gọi là màng trinh xơ bề dày của màng trinh trung bình 1 – 2 mm.
Màng trinh tồn tại tạm thời sau nhiều lần giao hợp, mỗi lần đẻ nó rách và teo dần, các mảng màng trình trở thành những gờ không đều, không bằng nhau hình thành các núm nhỏ, có những màng trinh dai, cứng cản trở sự giao hợp, trái lại có những màng trinh giãn khi giao hợp không bị rách hay gặp cấu tạo giải phẫu màng trinh hình nếp gấp, hình nhiều múi, hình đài hoa.
1.2. Hình thái của màng trinh:
Màng trinh rất đa dạng. Hình vành khăn là loại phổ biến nhất, lỗ ở giữa, bờ lỗ nhẵn đều, có khi tạo nên các khía chạy dài tới thành âm đạo, hình thái này dễ nhầm với rách.
Ảnh: Một số màng trinh
- Hình bán nguyệt: lỗ chếch, thường ở trên, hướng phía niệu đạo.
- Hình môi: có một khe dọc ở giữa, hướng trên, dưới.
- Hình ống: là loại hình tròn, nhưng bờ tự do nhô ra phía ngoài.
- Màng trinh có cầu nối: cấu tạo hai lỗ ở hai bên, giữa là một tổ chức 3 ngăn cách.
- Màng trinh có nhiều lá: lỗ hình khế.
- Màng trinh có nhiều lỗ.
- Màng trinh không có lỗ
- Màng trinh hình phễu: đỉnh phễu thường hướng vào âm đạo.
- Màng trinh hình đài hoa: bờ tự do có nhiều mảnh giống cánh hoa lợp lên nhau.
1.3. Dấu hiệu phá trinh:
Màng trinh còn nguyên vẹn là một bằng chứng biểu hiện trinh tiết của người phụ nữ, vì vậy rách màng trinh là dấu hiệu cơ bản của phá trinh. Màng trinh có thể rách ở nhiều nơi thường rách bờ dưới hướng về hậu môn, vết rách có khi nông và có thể rách sâu đến thành âm đạo và âm hộ. Số lượng vết rách và vị trí rách phụ thuộc vào độ chun giãn, bề dày của màng trinh.
Vết rách mới: trong vòng 3 – 4 ngày bờ tù, đỏ, rớm máu, sưng nề, bình thường 4 – 5 ngày thành sẹo, từ 8 – 10 ngày sẹo hoá hoàn toàn đôi khi có mủ nếu nhiễm trùng hay bị lậu. Hiện tượng nhiễm trùng có thể gây viêm tấy kéo dài 15 – 20 ngày. Khi hoá sẹo bờ mỗi bên trắng dày khúc khuỷu, đôi khi khó phân biệt. Thường không bao giờ hai mép dính lại với nhau, cực kỳ hiếm có trường hợp hai mép rách dính liền, dùng lúp soi, mới thấy một sẹo trắng rất nhỏ.
Loại hình vành khăn thường rách phía hậu môn và hai bên, nếu là hình bán nguyệt vết rách ở hai bên thường rách về phía hậu môn. Loại hình khế thường rách hai bên chếch lên trên hoặc về phía hậu môn.
Ở con gái đến tuổi trưởng thành, màng trinh xơ mỏng, giao hợp dễ dàng và màng trinh dễ rách, vết rách ít viêm tấy kéo dài. ít khi thấy tổn thương lớn ở âm đạo và tầng sinh môn.
Ở trẻ em gái tuổi càng nhỏ, càng ít khả năng rách màng trinh, vì âm đạo hẹp giao cấu khó thực hiện, nhưng nếu hành vi hiếp dâm thực hiện được thương tích thường lan rộng và trầm trọng như bầm tím, viêm quanh âm hộ. Nếu rách màng trinh thường hay rách cả tầng sinh môn và thành âm đạo, có khi rách cả túi cùng sau. Trường hợp này dễ dẫn đến tử vong do chảy máu. Dấu hiệu tổn thương do dâm ô đối với trẻ em hầu như chắc chắn không khi nào có sự ưng thuận.
Với trẻ nhỏ dưới 7 tuổi không thể thực hiện giao hợp được.
Với trẻ nhỏ từ 7 tuổi đến 12 tuổi có thể giao hợp được, nhưng gây tổn thương nặng. Từ 13 tuổi trở lên dấu vết hiếp dâm tương tự như con gái đã trưởng thành.
Vết rách cũ: góc vết rách nhọn, không đều, màu trắng, nắn cứng. Nếu giao hợp nhiều lần, mép ngoài của môi lớn nhẽo để lộ mỗi nhỏ và màng trinh rách nhiều nơi hình thành các mẩu còn lại. Đẻ nhiều lần màng bị huỷ còn sót lại những mẩu như mào gà.
Ký hiệu vị trí rách màng trinh được minh hoạ bằng chữ số mặt đồng hồ. Ví dụ: màng trinh rách ở vị trí tới 3 giờ…
2. Giám định y pháp dấu hiệu xâm phạm tình dục:
2.1. Dấu vết trên nạn nhân:
Xác định có phá màng trinh:
Tìm các vết rách và tính chất các vết rách: Nếu rách mới có thể thấy chảy máu, máu ở đây có hồng cầu, bạch cầu và tơ huyết. Nếu trong máu có nhiều tế bào biểu mô âm đạo hoặc có lẫn cả tế bào biểu mô nội tạng mạc tů cung thường là máu kinh nguyệt. Máu có khi thấy cả ở quần áo.
Tìm tinh trùng: lấy chất nhầy của âm hộ, âm đạo (để riêng biệt), các vết nghi ngờ tinh dịch ở quần áo, ở trên người nạn nhân nhất là vùng gần cơ quan sinh dục để tìm tinh trùng. Sau một vài giờ soi tươi có thể thấy tinh trùng sống lẫn với xác tinh trùng. Sau vài ngày khi các vết dính ở quần áo đã khô tìm tinh thể Florence, cho vết nghi ngờ ngâm vào nước muối sinh lý rồi ly tâm lấy cặn phết lên kính rồi giỏ dung dịch Florence gồm iodo-iodure với nước cất sau đó phủ lá kính để 15 30 phút quan sát dưới kính hiển vi, nếu có tinh trùng sẽ thấy tinh thể óng ánh, đầu vát nhọn đứng rời rạc hoặc chồng chất lên nhau, đó là chất của tinh trùng.
Dung dịch Florence:
– Iodur de potassium 1.65 gr
– Iode 2.54 gr
– Nước cất 30 gr
Lấy các lông tóc rụng ở bộ phận sinh dục: ở quần áo nhất là quần lót để xem xét đối chiếu. Thu lượm lông tóc cần chú ý tìm những lông tóc còn chân của nó, kết quả xét nghiệm độ tin cậy cao thủ ở vị trí nào phải bảo quản, để riêng đồng thời phải nhổ những sợi lông bộ phận sinh dục hoặc tóc của nạn nhân cũng như người phạm tội để làm đối chứng so sánh xét nghiệm tìm thể base ở lông tóc để xác định giới bằng kỹ thuật huỳnh quang miễn dịch hoặc dùng kỹ thuật ADN.
Tìm các dấu vết chống cự: vết hằn bóp cổ, ấn móng tay ở cổ, sây sát của nạn nhân cũng như ở cổ tay, cánh tay và xung quanh mồm, mũi, kể cả dấu răng cắn. Dấu vết chống đỡ còn thể hiện tinh dịch vương vãi nhiều nơi trên cơ thể, tư trang của nạn nhân và trên hiện trường.
2.2. Dấu vết trên người thủ phạm:
Các vết chống cự của nạn nhân như vết cắn, vết cào cấu, lông tóc rụng cũng như vết nghi ngờ máu, tinh khí trên quần áo cần được thu giữ và xét nghiệm sớm.
Ngoài ra còn phải thử, nhóm máu xác định HIV, tìm các vi khuẩn bệnh hoa liễu (lậu, giang mai) ở bộ phận sinh dục của cả nạn nhân và thủ phạm nhằm mục đích tìm thêm chứng cứ bổ sung cho sự xác định có giao hợp.
2.3. Những điều cần lưu ý khi kết luận giám định:
Trong nhiều trường hợp, kết luận cưỡng dâm không đơn giản, nhất là đối với người sống vì có khi nạn nhân là người vu cáo, hoặc ngụy trang hiện trường để vu cáo. Trước khi giám định cần yêu cầu cơ quan điều tra cho biết quá trình của vụ việc xảy ra, cho xem hiện trường và cho gặp nạn nhân để tìm hiểu những điều cần thiết như hoàn cảnh xảy ra, tuổi, cân nặng chiều cao, trạng thái tâm thần, tình hình sức khỏe trước và sau khi bị cưỡng dâm, tiền sử về sinh dục (bệnh tật, sinh lý.), tư thế hiếp dâm, cách đối phó của của nạn nhân. Hỏi về thủ đoạn của bị can như: dỗ dành, lừa phỉnh, lợi dụng cơ hội (ngủ say, uống thuốc ngủ, bệnh tật v.v…)doạ dẫm hay dùng bạo lực để hiếp dâm. Một người hay nhiều người hiếp, nếu hiếp thì ai hiếp trước, ai hiếp sau. Tất cả nhằm mục đích biết thực hư của sự việc và đối chiếu với kết quả thu được khi khám giám định.
Phương thức khám bộ máy sinh dục nạn nhân
Phương tiện khám: dụng cụ thụt tháo phân, găng tay cao su, dầu parafin, đèn pin, kính lúp, ống nghiệm, tăm bông, lam kính, cồn 70, túi ny lông bảo quản vật phẩm.
Kỹ thuật khám:
* Khám gián tiếp:
+ Nạn nhân ở tư thế sản khoa
+ Tay trái mở rộng hai mép âm hộ, ngón trỏ tay phải đưa vào hậu môn nâng đẩy ra trước, màng trinh sẽ bộc lộ hoàn toàn. Nhận xét kỹ độ dày, độ giãn, tính chất hình thái màng trinh.
* Khám trực tiếp:
+ Tìm tổn thương thành âm hộ, âm đạo (cần phải mô tả vị trí, kích thước màu sắc và hình thái của âm hộ).
+ Phải lưu ý lấy dịch nhầy trong và ngoài âm hộ tìm tinh trùng và vi khuẩn bệnh hoa liễu.
Loại màng trinh hình đài hoa làm khó nhận định vết rách hoặc sẹo, cần phân biệt với rách màng trinh do mọi vật đưa vào (thủ dâm) hoặc do viêm loét, do ngã ngồi cưỡi lên một vật khác. Đi xe đạp, cưỡi ngựa, nhảy cao không thể rách được màng trinh.
Có khi giao hợp mà màng trinh không rách, gặp trong các trường hợp lỗ màng trinh thiểu sản, màng trinh chun giãn.
Trong trường hợp dùng uy quyền để cưỡng dâm thường cũng không để lại vết tích, trường hợp này phải kết hợp với điều tra tư pháp, đây là vấn đề rất khó khăn, thương tích màng trinh thường là sẹo cũ.