Giảm án là một trong những vấn đề được nhiều người quan tâm bởi đây là sự khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội được áp dụng trong những dịp lễ lớn của quốc gia. Tuy nhiên, không phải phạm nhân nào cũng được sự khoan hồng của pháp luật cụ thể là giảm án, giảm thời gian chấp hành án phạt tù.
Mục lục bài viết
1. Giảm án là gì?
Để giúp các bạn hiểu về khái niệm giảm án là gì? Tác giả xin giới thiệu cho các bạn đọc hiểu về khái niệm án.
Án được hiểu theo lĩnh vực của pháp luật là những chế tài được nhà nước quy định và áp dụng cho người thực hiện hành vi phạm tội theo quy định của bộ Luật hình sự. Án ở đây là kết luận cuối cùng của Tòa án sau phiên xét xử sẽ áp dụng đối với người phạm tội sau khi bản án của Tòa có hiệu lực pháp lý. Hiện nay theo quy định của nước ta thì các hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội là hình phạt chính bao gồm hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục suất, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hành. Ngoài ra, sẽ có các hình phạt bổ sung như: Cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định…
Như vậy, chúng ta có thể hiểu giảm án chính là một hình thức thể hiện sự khoan hồng, bao dung của pháp luật đối với người phạm tội bằng cách giảm thời hạn phạt tù, hoặc chuyển từ hình phạt tử hình sang hình phạt tù chung thân hoặc từ tù chung thân sang tù có thời hạn…Tuy nhiên để có thể được giảm án người bị kết án cần phải đáp ứng các điều kiện được quy định theo pháp luật như phạm tội lần đầu, có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt…
Giảm án, giảm thời hạn chấp hành án phạt tù là một trong những vấn đề được nhiều người quan tâm. Đây cũng được xem là tính nhân đạo của Nhà nước ta đối với người phạm tội. Hiện nay, quy định về giảm án, giảm thời hạn chấp hành án phạt tù được nhiều văn bản quy định về nội dung này, cụ thể như sau:
Căn cứ theo Chương III của Thông tư liên tịch 02/2021/TTLT-TANDTC-BCA-BQP quy định:
2. Thời điểm xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù:
– Các ngày lễ để được xem xét áp dụng giảm thời hạn chấp hành án phạt tù được chia làm 03 đợt là Ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước (30/4), ngày Quốc khánh (2/9) và tết Nguyên đán. Đây là những ngày lễ lớn nhất của nước ta, ghi nhận những giá trị lịch sử hào hùng của đất nước trong giai đoạn kháng chiến chống giặc. Vì vậy được lựa chọn là dịp để Đảng và Nhà nước ta thể hiện sự khoan hồng đối với nhân dân cả nước. Thời gian để áp dụng thời hạn chấp hành án phạt tù được xác định từ ngày 01 tháng 01 đến ngày 31 tháng 12 của năm đó.
– Mỗi năm 01 phạm nhân chỉ được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù 01 lần theo quy định tại Điều 38 của Luật Thi hành án hình sự quy định về thủ tục giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.
Sau lần xét giảm đầu tiên, nếu các năm tiếp theo phạm nhân có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật thì sẽ được xét giảm vào đúng đợt mà đã được xét giảm lần đầu. Trường hợp đã được giảm mà thời hạn tù còn lại không đủ 01 năm thì năm tiếp theo có thể đề nghị xét giảm sớm hơn 01 đợt, nhưng vẫn phải bảo đảm mỗi năm chỉ được xét giảm 01 lần.
3. Hồ sơ đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù:
Cơ quan trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ công án, Bộ quốc phòng và cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu sẽ có thẩm quyền đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù và có trách nhiệm lập hồ sơ, sau đó chuyển cho
– Bản sao bản án; trường hợp xét giảm án từ lần hai thì bản sao bản án được thay bằng bản sao quyết định thi hành án;
– Văn bản của cơ quan có thẩm quyền đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù;
– Kết quả xếp loại chấp hành án phạt tù theo quý, 06 tháng, 01 năm;
– Kết luận của bệnh viện, hội đồng giám định y khoa cấp tỉnh, cấp quân khu trở lên về tình trạng bệnh tật đối với trường hợp phạm nhân bị bệnh hiểm nghèo hoặc tài liệu thể hiện phạm nhân là người quá già yếu;
– Bản sao quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với trường hợp đã được giảm;
– Tài liệu chứng minh kết quả bồi thường nghĩa vụ dân sự của người được đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.
4. Trình tự thủ tục giảm thời hạn chấp hành án phạt tù:
- Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu nơi phạm nhân đang chấp hành án thành lập Hội đồng và tổ chức phiên họp để xét, quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù. Thành phần Hội đồng gồm 03 Thẩm phán; phiên họp có sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp. Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Tòa án sẽ hoãn phiên họp để đảm bảo công bằng. Thời gian hoãn phiên họp không quá 07 ngày, kể từ ngày hoãn.
Đối với trường hợp hồ sơ phải bổ sung theo yêu cầu của Tòa án thì thời hạn mở phiên họp được tính từ ngày nhận được hồ sơ bổ sung.
- Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định về việc giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, Tòa án phải gửi quyết định đó cho người chấp hành án, cơ quan đề nghị giảm thời hạn chấp hành án, Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp, Tòa án đã ra quyết định thi hành án, Sở Tư pháp nơi Tòa án ra quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù có trụ sở, Bộ Ngoại giao trong trường hợp người được giảm thời hạn chấp hành án là người nước ngoài.
5. Giảm mức hình phạt đã tuyên:
Căn cứ theo điều 63 của Bộ luật hình sự quy định đối với những phạm nhân đã được tuyên án nhưng vì một số lý do mà được giảm mức hình phạt đã tuyên, cụ thể:
a) Người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định, có nhiều tiến bộ và đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
Thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là một phần ba thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù có thời hạn, 12 năm đối với tù chung thân.
- Một người có thể được giảm nhiều lần, nhưng phải bảo đảm chấp hành được một phần hai mức hình phạt đã tuyên. Người bị kết án tù chung thân, lần đầu được giảm xuống 30 năm tù và dù được giảm nhiều lần cũng phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 20 năm.
b) Trường hợp người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung thân thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu xuống 30 năm tù sau khi đã chấp hành được 15 năm tù và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành là 25 năm.
c) Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới ít nghiêm trọng do cố ý, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được một phần hai mức hình phạt chung.
d) Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được hai phần ba mức hình phạt chung hoặc trường hợp hình phạt chung là tù chung thân thì việc xét giảm án thực hiện theo quy định tại điểm c của mục này.
e) Đối với người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc người bị kết án tử hình thuộc trường hợp quy định tại điểm b hoặc điểm c mục này thì thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm. Vì để bị kết án tử hình thì người phạm tội đã thực hiện hành vi vi phạm đặc biệt nghiêm trọng, do đó, để đảm nguyên tắc công bằng và làm gương, đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật thì Nhà nước ta sẽ cho người bị kết án tử hình sang án tù 30 năm, đây là khung hình phạt tù nặng nhất chỉ sau tù chung thân.
Ngoài ra, còn được áp dụng giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt như người bị kết án có lý do đáng được khoan hồng thêm như đã lập công, đã quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì Tòa án có thể xét giảm vào thời gian sớm hơn hoặc với mức cao hơn so với thời gian và mức hình phạt đã tuyên.
Như vậy, để có thể được áp dụng giảm án, giảm thời gian chấp hành án phạt tù thì người chấp hành hình phạt phải thuộc các trường hợp quy định trên. Chính vì vậy để có thể được giảm thời gian chấp hành hình phạt tù hoặc giảm án thì rất khó khăn và cần nhiều yếu tố, do đó bản thân mỗi người cần có hành vi ứng xử đúng với quy định của pháp luật.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết:
–
– Thông tư liên tịch số 02/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP quy định quan hệ phối hợp trong việc thực hiện trình tự, thủ tục tạm đình chỉ và giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.