Giải quyết tranh chấp đất đai từ năm 1974. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai.
Giải quyết tranh chấp đất đai từ năm 1974. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai.
Tóm tắt câu hỏi:
Dạ thưa luật sư, xin được hỏi về vấn đề tranh chấp đất đai. Nội dung cụ thể như sau. Năm 1974, A mua đất của C nhưng không ở mà để đất lại cho B (chú của A ở vì B có mảnh đất bên cạnh). Khi HTX đòi lấy lại đất, B có kêu A về giữ đất nhưng A không về. Đất được giao cho B sử dụng cho tới nay và B đứng quyền sử dụng trong sổ đỏ và đóng thuế từ 1974 – nay, nhưng nghĩ tình chú cháu, B có viết giấy khi nào A về, B sẽ cho lại mấy thước đất để xây nhà, giấy được viết từ 1974, không có chữ kí 2 bên, không có xác nhận của chính quyền địa phương. Vậy A đòi lại đất căn cứ theo giấy viết tay có hợp lệ không? Xin cảm ơn luật sư.
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Cơ sở pháp lý:
2. Luật sư tư vấn:
Theo quy định tại khoản 16 Điều 3 Luật đất đai năm 2013 thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất.
Điều 167 Luật đất đai năm 2013 về quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất cũng khẳng định: người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai; hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Khoản 5 Điều 87 Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở như sau:
"Nhà nước không thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trái pháp luật trong các trường hợp quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 106 của Luật Đất đai nếu người được cấp Giấy chứng nhận đã thực hiện thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc chuyển mục đích sử dụng đất và đã được giải quyết theo quy định của pháp luật.
Việc xử lý thiệt hại do việc cấp Giấy chứng nhận pháp luật gây ra thực hiện theo quyết định hoặc bản án của Tòa án nhân dân. Người có hành vi vi phạm dẫn đến việc cấp Giấy chứng nhận trái pháp luật bị xử lý theo quy định tại Điều 206 và Điều 207 của Luật Đất đai."
Đối chiếu với các quy định trên, đất đã được giao cho B sử dụng ổn định từ năm 1974 đến nay và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì mảnh đất đó thuộc quyền sử dụng của B, được nhà nước thừa nhận. A và B có viết giấy về chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng giấy viết tay này không có chữ kí của hai bên, không có sự xác nhận của chính quyền địa phương nên giấy viết tay này không có căn cứ pháp lý trong việc giải quyết tranh chấp đất đai. A sẽ không thể căn cứ vào mảnh giấy đó để đòi lại đất mà chỉ có thể thương lượng với B để nhận chuyển nhượng một phần quyền sử dụng đất.