Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện vai trò của Viện kiểm sát trong áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt
Đấu tranh và phòng ngừa các tội phạm có tổ chức đặc biệt nghiêm trọng, các tội phạm xâm phạm ninh quốc gia, tội phạm về tham nhũng, tội phạm ma túy …là một trong những nhiệm vụ trọng tâm luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, chỉ đạo. Việc luật hóa các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt cũng là một trong những giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả và chất lượng điều tra, truy tố xét xử đối với các loại tội phạm nói trên. Các biện pháp này là cơ sở để đảm bảo việc phát hiện, xử lý được nhanh chóng, thuận lợi và chính xác.
Mặt khác, với đặc thù trong quy định cũng như áp dụng trong bối cảnh phải giải quyết mâu thuẫn giữa nhiệm vụ kịp thời, nhanh chóng và hiệu quả trong đấu tranh chống các tội phạm ấy với nhiệm vụ không kém phần quan trọng là bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự mà Hiến pháp và các văn bản pháp luật có liên quan đã quy định. Điều đó tất yếu đòi hỏi phải có vai trò của VKSND nhằm kiểm sát thật chặt chẽ và nghiêm ngặt, tạo hành lang pháp lý hỗ trợ cho việc triển khai đúng pháp luật trên nguyên tắc vừa củng cố yêu cầu pháp chế, đồng bộ trong thực thi và tạo thuận lợi, không làm thay, không cản trở quá trình áp dụng. Trước những khó khăn đã được nêu trong quá trình triển khai trên thực tế mà luận đã phân tích, theo tôi trong thời gian tới để cơ chế kiểm sát đối với việc áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt được triển khai hiệu quả, tích cực cần thực hiện các giải pháp sau đây:
Mục lục bài viết
1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự nhằm nâng cao vai trò của Viện kiểm sát trong áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt:
Giải pháp này nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật TTHS nói riêng. Đây là giải pháp có ý nghĩa và vai trò đặc biệt quan trọng vì nó là cơ sở để tiến hành đồng bộ các giải pháp khác. Để hoàn thiện các quy định của BLTTHS hiện hành liên quan đến biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt cần sửa đổi, bổ sung.
Để có thể tiến hành các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, một cách có hiệu quả thì một hệ thống các quy phạm pháp luật về vấn đề này cần được hoàn thiện hơn tạo điều kiện cho cơ quan chức năng có thẩm quyền có thể tiến hành một cách nhanh chóng và bảo vệ tốt nhất quyền con người cũng như công tác điều tra khám phá tội phạm. Do đó, dưới đây là các giải pháp hoàn thiện pháp luật về các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt hiện nay:
Thứ nhất, cần sửa đổi, bổ sung Khoản 1 Điều 225 BLTTHS liên quan đến thẩm quyền áp dụng BPĐT TTĐB để đảm bảo tính thống nhất, hiệu quả trong việc xác định chủ thể có thẩm quyền áp dụng tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình thực hiện vai trò kiểm sát của VKSND
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 163 BLTTHS 2015 của Việt Nam thì CQĐT VKSND tối cao, CQĐT VKS quân sự Trung ương có chức năng điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của BLHS. Trong khi đó, các quy định về thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp ĐTTTĐB tại Điều 224, Điều 225 của BLTTHS 2015 chưa có quy định tương ứng, phù hợp với thẩm quyền tại Điều 163 về CQĐTVKSND tối cao, CQĐTVKS quân sự Trung ương.
Liên quan tới thẩm quyền ra quyết định tiến hành biện pháp ĐTTTĐB, tại Khoản 1 Điều 225 quy định “Thủ trưởng CQĐT cấp tỉnh, Thủ trưởng CQĐT quân sự cấp quân khu trở lên tự mình hoặc theo yêu cầu của Viện trưởng VKSND cấp tỉnh, Viện trưởng VKS quân sự cấp quân khu có quyền ra quyết định áp dụng biện pháp ĐTTTĐB”. Có thể thấy điều luật chỉ đề cập tới Viện trưởng VKSND cấp tỉnh, Viện trưởng VKS quân sự cấp quân khu mà chưa đề cập tới Viện trưởng VKSND cấp tối cao, Viện trưởng VKS quân sự Trung ương trong việc yêu cầu CQĐT cùng cấp áp dụng biện pháp ĐTTTĐB. Như vậy, có thể suy ra rằng, đối với các vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, hoặc thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì Viện kiểm sát hoàn toàn không có quyền yêu cầu phía Cơ quan điều tra thực hiện các biện pháp này. Đây là một thiếu sót về thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát trong các hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt.
Vì vậy, để bảo tính thống nhất, hiệu quả trong việc áp dụng các biện pháp ĐTTTĐB, có thể sửa đổi khoản 1 Điều 225 BLTTHS 2015 như sau: “Thủ trưởng CQĐT cấp tỉnh, Thủ trưởng CQĐT quân sự cấp quân khu trở lên tự mình hoặc theo yêu cầu của Viện trưởng VKSND cùng cấp có quyền ra quyết định áp dụng biện pháp ĐTTTĐB” và bổ sung thêm đoạn sau “Thủ trưởng CQĐT VKSND tối cao, CQĐT VKS quân sự Trung ương có quyền ra quyết định áp dụng biện pháp ĐTTTĐB đối với việc điều tra tội tương ứng với thẩm quyền điều tra tại Khoản 3 Điều 163 Bộ luật này”.
Việc sửa đổi, bổ sung như trên là hợp lý trong việc thống nhất thẩm quyền áp dụng BPPR TTĐB theo đúng quy định của BLTTHS năm 2015 cũng như đảm bảo trong quá trình thực hiện vai trò kiểm sát BPĐT TTĐB VKSND xác định chủ thể đó có thẩm quyền áp dụng hay không? Từ đó xác định căn cứ thực hiện việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn việc áp dụng BPĐT TTĐB.
Thứ hai, bổ sung quy định và cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong việc tiến hành các hình thức kiểm sát.
Cụ thể, cần bổ sung quy định theo tinh thần trong một số trường hợp nếu xét thấy cần thiết, VKS có quyền trực tiếp kiểm sát CQĐT thực hiện các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Bên cạnh đó, nội dung VKS được quyền trực tiếp kiểm sát khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng xảy ra trong khi áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt như:
Có vi phạm về căn cứ, về thời hạn, về thủ tục, về phạm vi loại tội phạm áp dụng, có hành vi lạm quyền, để lộ bí mật, ảnh hưởng đến sinh hoạt bình thường của đối tượng… Hoạt động kiểm sát này có thể được tiến hành ngay khi phát hiện có vi phạm pháp luật xảy ra mà không kể đó là thời điểm nào. Nếu phát hiện ra các vi phạm, VKS phải có kết luận bằng văn bản xác định nguyên nhân và hậu quả do hành vi vi phạm pháp luật gây ra; đồng thời, yêu cầu CQĐT có biện pháp chấm dứt việc làm vi phạm pháp luật và có biện pháp xử lý đối với người vi phạm.
Thứ ba, cần có văn bản hướng dẫn thi hành quy định về thời hạn thực hiện sau khi có sự phê chuẩn của VKSND đối với Quyết định áp dụng BPĐT TTĐB
Việc quy định thời hạn phê chuẩn của VKSND đối với các các quyết định về áp dụng biện pháp ĐTTTĐB trong pháp luật sẽ tạo căn cứ pháp lý cho việc thực hiện, để đảm bảo tính chặt chẽ trước khi thi hành biện pháp ĐTTTĐB và tránh sự tùy tiện trong áp dụng các biện pháp này. Vì thế, đây là một ưu điểm trong quy định của pháp luật Việt Nam.
Biện pháp ĐTTTĐB đòi hỏi phải chặt chẽ và tiến hành cấp bách, tuy nhiên trong BLTTHS 2015 lại chưa quy định trong khoảng thời gian bao lâu thì quyết định áp dụng biện pháp điều tra đặc biệt có hiệu lực pháp luật (VKS đã phê chuẩn) thì thủ trưởng CQĐT cấp tỉnh, thủ trưởng CQĐT cấp quân khu trở lên sẽ thực hiện thi hành.
Tác giả nhận thấy rằng việc quy định thời hạn phụ thuộc vào những đặc điểm cụ thể. Tuy nhiên, qua khảo sát các quy định về thời gian cần thiết để thực hiện các quyết định có tính chất hạn chế quyền con người, quyền công dân tại Chương VII BLTTHS năm 2015 thì đề xuất xác định thời gian thực hiện quyết định áp dụng biện pháp tố tụng đặc biệt là không quá 12 giờ.
Thứ tư, nên quy định hình thức quyết định hủy bỏ việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt
Trong trường hợp này Viện trưởng VKSND sau khi áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt và yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra hữu quan thi hành kịp thời. Và cần có hướng dẫn cụ thể của cơ quan hữu quan về thủ tục tiêu hủy thông tin, tài liệu thu được không liên quan đến vụ án, thủ tục CQĐT
Việc lạm dụng sử dụng các thông tin thu thập được vào các mục đích không phù hợp, xâm phạm bí mật đời tư của công dân là điều đáng lo ngại nhất khi áp dụng các biện pháp này. Do đó, pháp luật TTHS của Đức cũng đồng thời quy định việc tiêu hủy này phải được tiến hành dưới sự kiểm soát của Cơ quan Công tố và phải được lập biên bản. Đây là quy định chặt chẽ và cụ thể mà Việt Nam có thể học hỏi các quốc gia trên thế giới rằng nếu sau khi có căn cứ cho rằng không sử dụng hoặc hết thời hạn sử dụng các tài liệu, thông tin thu thập được từ các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt thì cần phải tiêu hủy, có sự chứng kiến của các lực lượng kiểm sát và phải lập thành biên bản để hướng dẫn trong việc sử dụng thông tin, tài liệu thu thập được bằng biện pháp ĐTTTĐB.
Thứ năm, BLTTHS năm 2015 cần quy định các nguyên tắc trong thu thập chứng cứ điện tử trên tinh thần đảm bảo: Không làm thay đổi thông tin được lưu trong máy tính hoặc các thiết bị kỹ thuật số; khi phải tiếp cận với thông tin gốc được lưu giữ trong máy tính hoặc trong các thiết bị kỹ thuật số thì người tiếp cận phải là những chuyên gia được đào tạo để thực hiện việc thu thập và phục hồi chứng cứ điện tử, việc ghi lại dữ liệu (copy) phải được thực hiện đúng quy trình, phải sử dụng các thiết bị và phần mềm được thế giới công nhận và có thể kiểm chứng được; phải bảo vệ được tính nguyên vẹn của dữ liệu điện tử lưu trong máy.
Đối với trình tự, thủ tục thu thập, bảo quản chứng cứ điện tử, BLTTHS năm 2015 cần quy định cụ thể như sau: Khi tiến hành thu thập chứng cứ điện tử từ máy vi tính không tắt CPU theo trình tự thông thường (shutdown) mà ngắt nguồn cung cấp điện trực tiếp cho CPU máy tính để bàn hoặc máy tính xách tay. Việc thu thập như vậy mới giúp các thông tin điện tử còn lưu trên máy tính, để khi bàn giao cho cán bộ có trách nhiệm phục hồi dữ liệu điện tử mới có thể đảm bảo tính nguyên vẹn.
Bên cạnh đó, trong thời gian tới, liên ngành tư pháp Trung ương cần thống nhất và ban hành văn bản hướng dẫn thi hành về biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt với những nội dung cơ bản như sau: Hướng dẫn cụ thể về nội dung, phương thức, trình tự áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt như: Ghi âm, ghi hình bí mật, thu thập bí mật dữ liệu điện tử.
BLTTHS năm 2015 với bổ sung quy định tại Chương XVI về các biện pháp ĐTTTĐB đã tạo hành lang pháp lý vững chắc cho CQĐT chủ động thu thập thông tin, tài liệu, bổ sung nguồn chứng cứ quan trọng có giá trị trực tiếp chứng minh tội phạm, xác định đối tượng phạm tội và đồng bọn, ngăn chặn đối tượng bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ, truy nguyên tài sản bị tội phạm chiếm đoạt… trong điều tra các vụ án phức tạp, có tổ chức, đặc biệt nghiêm trọng.
Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp điều tra đặc biệt có tính hai mặt, một mặt quy định sẽ góp phần nâng cao khả năng, hiệu quả phát hiện, điều tra tội phạm của cơ quan có thẩm quyền, nhưng một mặt cần xác định cụ thể các bước có thể thực hiện việc kiểm sát áp dụng thủ tục điều tra tố tụng đặc biệt; hướng dẫn cụ thể về các quyết định phê chuẩn việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, việc phê chuẩn biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, cần xác định cụ thể cơ chế phối hợp giữa VKSND và CQĐT trong quá trình áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Đây là cơ chế quan trọng góp phần đảm bảo quyền con người trong quá trình áp dụng các biện pháp này.
Nếu thiếu đi vai trò kiểm sát của VKSND sẽ dẫn đến sự lạm dụng của các CQĐT trong áp dụng các biện pháp này. Bởi vậy, việc áp dụng các biện pháp này chỉ giới hạn đối với một số nhóm tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, kèm theo là quy định chặt chẽ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, cũng như có phê chuẩn của VKS, đồng thời cơ chế kiểm sát của VKSND cũng thể hiện trong suốt quá trình áp dụng BPĐT TTĐB nhằm đảm bảo giữ trong một khoảng chừng mực để tránh việc lạm quyền, sử dụng một cách bừa bãi các biện pháp điều tra, xâm phạm tới quyền cơ bản của con người, quyền công dân.
Thứ sáu, quy định về việc
Để đảm bảo giữ bí mật cho đối tượng bị áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. BLTTHS nên quy định cụ thể sau khi CQĐT gửi thông báo về kết quả áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt cho Viện kiểm sát, Viện kiểm sát cần tiêu hủy thông báo kịp thời. Việc tiêu hủy thông báo sau khi xem xét không làm ảnh hưởng tới chứng cứ của vụ án bởi đây chỉ là thông báo kết quả, còn chứng cứ tồn tại ở dạng âm thanh, hình ảnh, dữ liệu điện tử thì CQĐT vẫn đang thu giữ. Bên cạnh đó để tránh việc lạm dụng, các văn bản hướng dẫn của các cơ quan hữu quan cũng cần quy định ưu tiên các biện pháp thông báo thông qua đường dây nóng, hạn chế tối đa thông báo ra bên ngoài bằng văn bản.
Thứ bảy, bổ sung quy định về trách nhiệm giữ bí mật trong áp dụng BPĐT TTĐB đối với các chủ thể có liên quan
Vấn đề đã được tác giả nêu ở trên: khi có sự kiểm sát của VKSND và các chủ thể khác thì sự bí mật trong quá trình điều tra đặc biệt sẽ một phần không còn ý nghĩa nữa. Điều này không hẳn đúng, bởi lẽ việc thực hiện vai trò của VKSND trong quá trình áp dụng biện pháp ĐTTTĐB không những góp phần hạn chế quyền con người, quyền cơ bản của công dân mà còn có ý nghĩa trong việc góp phần phòng ngừa tội phạm tư pháp xảy ra. Vậy vấn đề cần giải quyết ở đây là cần có quy định như thế nào để cân bằng giữa đặc điểm đặc trưng của BPĐT TTĐB là “mang tính bí mật” với sự tham gia không chỉ của KSV mà những chủ thể tiến hành tố tụng khác để đảm bảo hiệu quả trong công tác đấu tranh tội phạm mà không làm mất đi ý nghĩa của BPĐT TTĐB.
Yếu tố bí mật là một đặc điểm đặc thù có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo cho yêu cầu trong thực hiện biện pháp ĐTTTĐB. Nếu những thông tin về việc tiến hành biện pháp ĐTTTĐB tới đối tượng bị áp dụng trong vụ án sẽ khiến chúng cảnh giác, tìm cách đối phó, tạo ra thông tin sai, đánh lạc hướng Cơ quan tố tụng hay có biểu hiện chống đối dẫn tới hiện tụng phiền hà, làm ảnh hưởng đến quá trình điều tra. Vì vậy, những chủ thể có thẩm quyền ra quyết định bao gồm Thủ trưởng CQĐT, Viện trưởng VKS và người thi hành quyết định áp dụng được luật quy định phải giữ bí mật. Pháp luật Việt Nam có thể học hỏi từ BLTTHS Trung Quốc về những quy định về trách nhiệm giữ bí mật của các chủ thể tham gia quá trình áp dụng BPĐT đặc biệt để có thể giải quyết vấn đề.
Pháp luật TTHS của Trung Quốc quy định rất chặt chẽ về trách nhiệm giữ bí mật trong áp dụng biện pháp ĐTTTĐB. Tại Điều 150 BLTTHS Trung Quốc quy định các CQĐT phải giữ bí mật nhà nước, bí mật thương mại và bí mật riêng tư cá nhân trong quá trình thực hiện các biện pháp điều tra đặc biệt. Trong quá trình áp dụng các biện pháp ĐTTTĐB thì dẫn đến hệ quả là có những thông tin, kết quả thu được từ các đối tượng bị áp dụng, trong đó, có thể có những thông tin thuộc bí mật nhà nước, bí mật thương mại và bí mật riêng tư cá nhân mà việc tiết lộ các thông tin trên có thể ảnh hưởng theo hướng tiêu cực đến những đối tượng bị áp dụng.
Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi chính đáng của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi bị áp dụng các biện pháp ĐTTTĐB, không bị xâm phạm gây ảnh hưởng xấu thì pháp luật TTHS Trung Quốc đã quy định rõ trách nhiệm của các CQĐT khi tiến hành các biện pháp ĐTTTĐB. Luật cũng đồng thời chỉ rõ các loại thông tin bí mật mà các CQĐT phải có trách nhiệm đảm bảo bí mật bao gồm bí mật nhà nước, bí mật thương mại và bí mật riêng tư cá nhân, đây có thể là những thông tin nhạy cảm, có thể ảnh hưởng hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia, đến quyền lợi chính đáng của các tổ chức, cá nhân liên quan đã được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Bên cạnh đó, tại Điều 150 BLTTHS Trung Quốc còn quy định trách nhiệm giữ bí mật không chỉ của CQĐT thực hiện các biện pháp ĐTTTĐB đó mà còn quy định trách nhiệm phải hợp tác và bảo mật thông tin liên quan đối với các đơn vị, cá nhân có liên quan. Trong quá trình tiến hành các biện pháp ĐTTTĐB vì tính chất đặc thù của biện pháp này nên có thể dẫn đến khả năng không chỉ các CQĐT mà các tổ chức, cá nhân có liên quan có thể biết được thông tin, tài liệu thuộc bí mật của cá nhân, tổ chức, do đó, luật đã yêu cầu các tổ chức, cá nhân này phải có nghĩa vụ hợp tác và đồng thời yêu cầu phải bảo mật thông tin liên quan để biện pháp ĐTTTĐB có thể được thực hiện đảm bảo hiệu quả trong quá trình TTHS. Việc bảo mật thông tin liên quan đáp ứng được nguyên tắc quan trọng nhất khi áp dụng biện pháp ĐTTTĐB, đó là nguyên tắc bí mật, nguyên tắc có tính quyết định đối với hiệu quả của việc áp dụng biện pháp ĐTTTĐB trong quá trình điều tra vụ án hình sự.
Như vậy, pháp luật Việt Nam có thể học hỏi TTHS Trung Quốc về việc quy định rõ ràng và chặt chẽ về trách nhiệm giữ bí mật trong áp dụng biện pháp ĐTTTĐB, trong đó chỉ rõ những loại bí mật mà các CQĐT có trách nhiệm phải giữ bí mật như bí mật nhà nước, bí mật thương mại và bí mật riêng tư cá nhân, đồng thời cũng cần quy định rõ trách nhiệm giữ bí mật không chỉ đối với các CQĐT mà với cả các đơn vị, các nhân có liên quan để đảm bảo nguyên tắc bí mật trong việc áp dụng biện pháp ĐTTTĐB được tuân thủ triệt để. Đây là một ưu điểm trong các quy định về biện pháp ĐTTTĐB của Trung Quốc đảm bảo biện pháp ĐTTTĐB được áp dụng hướng đến mục đích phục vụ cho quá trình TTHS mà không gây tác động xấu không cần thiết cho các cá nhân, tổ chức, đồng thời tôn trọng quyền tự do, quyền công dân chính đáng.
Thứ tám, cần có ngay một văn bản liên ngành hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt để từ đó thuận lợi cho việc quy định và thực hiện kiểm sát áp dụng TTĐB, trong đó nêu rõ cách hiểu như thế nào là bí mật; phạm vi của sự bí mật này đến đâu, những người tiến hành tố tụng nào có thể biết, nghe điện thoại bí mật được thực hiện bằng các phương tiện gì; kết quả thu được là những chứng cứ vụ án thông qua áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt này phải được đưa vào hồ sơ vụ án như thế nào, những người tham gia tố tụng nào được quyền tiếp cận những tài liệu có được bằng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Bên cạnh đó, đặc biệt cần chú trọng xây dựng các biện pháp và chỉ dẫn kỹ thuật liên quan đến việc áp dụng như tên, đặc điểm, xuất xứ các loại máy móc, thiết bị ghi âm, ghi hình, phần mềm thu thập dữ liệu điện tử được phép sử dụng.
Trong văn bản hướng dẫn cần chỉ rõ cách thức tiến hành trên thực tế, cách tắt, mở, các thao tác kỹ thuật, nguyên tắc sử dụng, đặt vị trí máy móc trong quá trình áp dụng … Các loại phương tiện này phải đảm bảo không gây tiếng ồn cao, đảm bảo độ bí mật, không sử dụng các máy móc có nồng độ chất phóng xạ, từ tính quá mức cho phép làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người… Bên cạnh đó trong các văn bản nghiệp vụ của ngành Công an, quân đội, cần quy định bắt buộc phải tiến hành “thẩm định điều tra” đối với các vụ án có áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Thông thường, đây là hoạt động của Thủ trưởng Cơ quan điều tra nhằm nghiên cứu, kiểm tra về nội dung, trình tự, thủ tục, kết quả điều tra vụ án hình sự thông qua hồ sơ vụ án để đánh giá và đưa ra kết luận về tính hợp pháp, đầy đủ của các tài liệu, chứng cứ đã thu thập, tính vô tư, khách quan, chính xác của các mệnh lệnh, quyết định của người tiến hành tố tụng để đề ra các biện pháp khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong quá trình điều tra vụ án hình sự; đồng thời, qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm để đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác điều tra hình sự. Việc thẩm định có thể thực hiện trong giai đoạn điều tra hoặc sau khi kết thúc điều tra vụ án hình sự. Tuy nhiên do tính đặc thù của các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt nên riêng đối với các vụ án này cần có quy định về hoạt động thẩm định là bắt buộc ngay khi đang tiến hành, tài liệu thẩm định không đưa vào hồ sơ vụ án hình sự.
Biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt là biện pháp mới được quy định trong BLTTHS do đó còn nhiều vướng mắc bất cập cần được hoàn thiện hơn. Như trên đã phân tích, một trong những điểm khó khăn khi thực hiện vai trò của VKSND trong việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt đó là do mới lần đầu tiên được quy định trong BLTTHS nên các văn bản hướng dẫn thi hành chưa có.
Do đó theo chúng tôi trong thời gian tới, liên ngành tư pháp trung ương cần thống nhất và ban hành văn bản hướng dẫn thi hành về biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt (ở dạng thông tư). Văn bản này cần phải có những nội dung cơ bản như sau:
– Một là, cần hướng dẫn cụ thể về nội dung, phương thức, trình tự áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt như: ghi âm, ghi hình bí mật, thu thập dữ liệu điện tử. Cần xác định cụ thể các bước có thể thực hiện thủ tục điều tra đặc biệt.
– Hai là, cần xác định cụ thể cơ chế phối hợp của VKSND và Cơ quan điều tra trong quá trình tiến hành việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Đây là cơ chế quan trọng góp phần đảm bảo quyền con người trong quá trình áp dụng các biện pháp này. Thiếu đi sự kiểm sát của VKSND sẽ dẫn đến sự lạm dụng của các cơ quan điều tra trong áp dụng biện pháp này.
Trong quá trình áp dụng các biện pháp điều tra quan hệ giữa VKSND và CQĐT là quan hệ phối hợp và chế ước lẫn nhau. Điều này đảm bảo cho quá trình điều tra được thuận lợi, góp phần đảm bảo quá trình giải quyết vụ án hình sự được nhanh chóng, đúng luật đảm bảo quyền con người. Trong việc áp dụng biện pháp điều tra TTĐB, VKSND thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với CQĐT nhằm đảm bảo “Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn”. Cơ quan điều tra có trách nhiệm phối hợp và thực thi các yêu cầu trong quá trình VKSND thực hiện chức năng kiểm sát của mình.
Cần thực hiện và tuân thủ triệt để các quy định khác của pháp luật trong việc thực hiện nghĩa vụ của đối tượng bị kiểm sát.
2. Những giải pháp khác:
Ở đâu có quyền lực thì ở đó phải có sự kiểm soát quyền lực. Khi pháp luật được cho phép hạn chế quyền con người, quyền công dân thì ắt phải có cơ chế kiểm soát hữu hiệu để hạn chế tối đa sự vi phạm đến quyền con người, đặc biệt là khi nhà nước ta đang đề cao bảo vệ quyền con người, quyền công dân như hiện nay.
Bảo vệ quyền con người, quyền công dân là nhiệm vụ của VKSND. Pháp luật quy định chung chung về trách nhiệm đó của VKSND mà chưa có quy định hay hướng dẫn cụ thể về việc kiểm sát này đối với các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Cho nên, trong thời gian tới cần sớm quy định hoặc có những hướng dẫn và hoàn thiện các quy định về kiểm sát các biện pháp này. Các quy định, hoặc hướng dẫn cần phải chặt chẽ, vừa đảm bảo yêu cầu điều tra vừa hạn chế tối đa sự xâm phạm tới quyền con người.
Thứ nhất, nâng cao năng lực cán bộ, Kiểm sát viên trực tiếp thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt
Tăng cường tổ chức tập huấn chuyên sâu về công tác kiểm sát việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt theo hướng tổng kết thực tiễn, giải quyết những khó khăn, vướng mắc, bất cập nảy sinh từ thực tiễn; đồng thời, cần phổ biến, nhân rộng kinh nghiệm trong toàn ngành Kiểm sát nhân dân.
Trong hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ, cần phải đổi mới nội dung, chương trình theo hướng tập trung đào tạo, bồi dưỡng về kỹ năng thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp; cần tích cực mở các lớp bồi dưỡng chuyên sâu về công tác kiểm sát việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt cho KSV của VKSND cấp tỉnh. Đặc biệt hiện nay, chưa có giáo trình, tài liệu trình bày về kỹ năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, bởi lẽ, đây là nội dung mới nên các đơn vị đào tạo của ngành Kiểm sát nhân dân cần phải nhanh chóng xây dựng nội dung này.
Thứ hai, tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân hai cấp
Cần thực hiện thường xuyên, liên tục công tác kiểm tra và hướng dẫn nghiệp vụ cho VKS cấp dưới về công tác kiểm sát việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. VKS cấp trên cần chú ý trả lời chính xác đúng thời hạn và dám chịu trách nhiệm trong nội dung trả lời, tránh chung chung, thiếu tính khoa học và tính thuyết phục. Việc kiểm tra, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ về công tác kiểm sát việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải được làm thường xuyên, tránh hình thức, thông qua công tác kiểm tra kịp thời phát hiện những thiếu sót, để từ đó uốn nắn rút kinh nghiệm chung đồng thời khắc phục tình trạng chạy theo thành tích mà không báo cáo đầy đủ kết quả công tác, đặc biệt là những thiếu sót tồn tại.
Thứ ba, tăng cường hợp tác quốc tế trong đào tạo cán bộ điều tra, tập huấn nghiệp vụ cho Kiểm sát viên
Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng cho KSV trong việc kiểm sát quá trình áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Thực tiễn cho thấy, tổ chức tốt hợp tác quốc tế về đào tạo sẽ tạo điều kiện phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo. Tiếp tục cho phép các trường, các đơn vị khai thác nguồn kinh phí để cử cán bộ KSV công tác tại các phòng nghiệp vụ đi nghiên cứu, tham quan ở nước ngoài; cho phép các trường trao đổi sinh viên với các cơ sở đào tạo của ngành với các nước trong khu vực và trên thế giới. Các nước trên thế giới đã sử dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt này trước chúng ta, họ có kinh nghiệm hơn chúng ta, hợp tác để đào tạo cho lực lượng KSV sẽ rất hữu ích.
KSV không trực tiếp thực hiện các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, tuy nhiên họ có nhiệm vụ kiểm sát hoạt động này, đảm bảo hoạt động này được hiện đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định và góp phần bảo vệ quyền con người và khám phá vụ án hình sự …
Đây là biện pháp điều tra mới được quy định trong BLTTHS cho nên hiện giờ ngành kiểm sát nên sớm hoàn thiện tài liệu nghiệp vụ kiểm sát, tăng cường công tác tập huấn, đào tạo lại và bồi dưỡng nâng cao cho các biện pháp điều tra mới này để sớm có thể đào tạo KSV thực hiện nhiệm vụ này.
Kiểm sát quá trình điều tra, xử lý tội phạm là một lĩnh vực hoạt động có thể nói là rất khó, phương thức, thủ đoạn của tội phạm ngày càng tinh vi, một bộ phận KSV trước đây chưa được cập nhật các kiến thức về pháp luật, nghiệp vụ sẽ ảnh hưởng đến công tác kiểm sát điều tra, xử lý tội phạm … nhất là công tác kiểm sát các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt là các biện pháp mới. Chính vì vậy, tập huấn, đào tạo lại và bồi dưỡng nâng cao để tích lũy kinh nghiệm, học hỏi, trao đổi để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tế điều tra tội phạm có ý nghĩa rất lớn đối với công tác của cán bộ ngành kiểm sát.
Đặc biệt việc kiểm sát quá trình thu thập bí mật dữ liệu điện tử, liên quan đến công nghệ thông tin do đó ưu tiên đào tạo lực lượng KSV trẻ là phù hợp nhất vì những lý do: dễ tiếp thu công nghệ mới, được tiếp cận công nghệ thông tin sớm và yêu công việc … .
Đấu tranh chống tội phạm có tổ chức, đặc biệt là tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia đòi hỏi phải có lực lượng có tính chuyên môn cao, những cán bộ giỏi về nghiệp vụ, hiểu biết sâu cả về luật pháp của Việt Nam và quốc tế, có trình độ ngoại ngữ và giàu kinh nghiệm hợp tác quốc tế đấu tranh chống tội phạm, tâm huyết và nghiêm túc trong công việc.
Thứ tư, tăng cường và nâng cao chất lượng mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và các chủ thể kiểm sát trong quá trình áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt trên cơ sở thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ của mỗi cơ quan.
Để có thể nâng cao chất lượng, hiệu quả việc thực hiện các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt thì Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát và các chủ thể kiểm sát khác cần phải thực hiện tốt mối quan hệ phối hợp và chế ước khi tổ chức thực hiện các hoạt động này.
Trong mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, Viện kiểm sát có vai trò kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra nói chung, trong hoạt động thực hiện việc áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng nói riêng đảm bảo việc thực hiện các hoạt động điều tra này được thực tốt, tuân thủ các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự.
Đối với Cơ quan điều tra, sau khi khởi tố vụ án, Cơ quan điều tra cần phối hợp kịp thời với Viện kiểm sát. Tất cả những thông tin liên quan đến vụ án cần phải được kịp thời chuyển tới Viện kiểm sát để Viện kiểm sát xem xét kiểm sát việc khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra. Nếu thấy đủ cơ sở xác định việc áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng là cần thiết, có căn cứ đúng pháp luật thì Cơ quan điều tra cần tổng hợp, đề xuất và ra quyết định áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt gửi Viện kiểm sát để Viện kiểm sát nghiên cứu xem xét ra quyết định phù hợp.
Biện pháp điều tra tố tụng là biện pháp đặc biệt, lần đầu được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự và chưa thực sự được cụ thể nêu rõ quy trình phối hợp giữa hai cơ quan tiến hành tố tụng này.
Tuy vậy, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cần chủ động trong việc thực thi nhiệm vụ của mình, tạo điều kiện cho nhau, hỗ trợ cùng nhau đảm bảo việc thực hiện các hoạt động điều tra tố tụng được thực hiện áp dụng một cách chính xác, phù hợp, đúng quy trình của Bộ luật tố tụng hình sự. Mối quan hệ phối hợp giữa hai cơ quan trong quá trình áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt cần được thực hiện một cách linh hoạt, không máy móc, cứng nhắc nhưng vẫn đảm bảo tính pháp lý cao.
Bên cạnh mối quan hệ phối hợp thì mối quan hệ chế ước giữa hai cơ quan tiến hành tố tụng cũng cần được đảm bảo để việc thực hiện các biện pháp này thực sự đảm bảo đúng chất lượng.
Để việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt được thực hiện tốt trên tinh thần phối hợp giữa hai cơ quan tiến hành tố tụng. Mối quan hệ chế ước giữa hai cơ quan này cũng cần được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất. Trong mọi trường hợp khi nhận được hồ sơ cùng