Các giải pháp nâng cao việc thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người dân tộc thiểu số? Các giải pháp cần được thực hiện đồng bộ trên cả nước.
Để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý trên cả nước, một số giải pháp có thể áp dụng như:
Mục lục bài viết
- 1 1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về hoạt động trợ giúp pháp lý:
- 2 2. Tăng cường sự quản lý của Nhà nước, kiện toàn tổ chức bộ máy trong hoạt động trợ giúp pháp lý:
- 3 3. Bồi dưỡng, nâng cao năng lực, trình độ của người thực hiện trợ giúp pháp lý:
- 4 4. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan tổ chức có liên quan về hoạt động trợ giúp pháp lý cho người dân tộc thiểu số:
- 5 5. Tăng cường công tác xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý:
- 6 6. Đẩy mạnh công tác truyền thông về thực hiện pháp luật trợ giúp pháp lý:
1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về hoạt động trợ giúp pháp lý:
Sự lãnh đạo của Đảng tạo điều kiện thuận lợi, định hướng phát triển cho việc thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý. Đây không chỉ là một nguyên tắc mà còn là nhiệm vụ của Nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị. Tại bất kì địa phương nào cấp đảng ủy nhận thức rõ được vị trí, vai trò của trợ giúp pháp lý tại đó hoạt động thực hiện trợ giúp pháp lý đều có kết quả tích cực. Để nâng cao hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động trợ giúp pháp lý, cần tập trung vào các nội dung:
Một là, Nâng cao nhận thức và tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng, đề cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội đối với công tác tư pháp nói chung và hoạt động trợ giúp pháp lý nói riêng, xem đây là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, đưa các chỉ tiêu về trợ giúp pháp lý là một trong những tiêu chí chiến lược, là một trong những biến số trong phép tính phát triển kinh tế – xã hội hàng năm của mỗi địa phương.
Hai là, Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng việc xây dựng, ban hành Nghị quyết của Đảng theo hướng ngắn gọn, thiết thực, phù hợp với thực tiễn, gắn với từng đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý; cần có sự cân đối nguồn lực, đảm bảo điều kiện triển khai các nghị quyết một cách có hiệu quả; phân công rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, thời hạn hoàn thành nhiệm vụ, giải pháp. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết, dứt điểm việc cụ thể hóa, thể chế hóa, tổ chức thực hiện đường lối mà Đảng đề ra nhằm triển khai một cách nghiêm túc, nhanh chóng và có hiệu quả công tác thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý. Làm việc một cách có khoa học theo chương trình, kế hoạch cụ thể, các cán bộ lãnh đạo gương mẫu, luôn phải là người đi đầu trong mọi hoạt động về trợ giúp pháp lý, sát sao với quần chúng nhân dân, gắn liền với cơ sở; đẩy mạnh phân công, phân cấp, tăng cường chế độ trách nhiệm của cá nhân, đặc biệt là người đứng đầu.
Ba là, Nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về vai trò của hoạt động trợ giúp pháp lý về vị trí, vai trò của trợ giúp pháp lý trong bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo đảm tính công bằng trong xã hội, không để bất cứ đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý nào bị bỏ sót, đảm bảo mọi người dân đều được tiếp cận với dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí của Nhà nước.
Bốn là, Tăng cường trách nhiệm của các cấp ủy đảng và vai trò của đảng viên trong công tác kiểm tra, giám sát hoạt động thực hiện trợ giúp pháp lý của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. Xây dựng tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện trợ giúp giúp pháp lý và đưa kết quả này trở thành một trong những nội dung để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ hàng năm của các cá nhân, tổ chức, người đứng đầu các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan quản lý nhà nước.
2. Tăng cường sự quản lý của Nhà nước, kiện toàn tổ chức bộ máy trong hoạt động trợ giúp pháp lý:
Nhà nước là chủ thể thực hiện quản lý, kiểm sát chất lượng của dịch vụ trợ giúp pháp lý, nhằm đảm bảo trợ giúp pháp lý được thực hiện với mọi đối tượng có quyền sử dụng dịch vụ này như một công cụ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bản thân, góp phần thực hiện dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong điều kiện đổi mới, thực hiện hóa, công nghiệp hóa đất nước. Bên cạnh đó, Nhà nước có vai trò quan trọng trong tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, tạo động lực thu hút những người có đủ khả năng chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức tốt tham gia vào hoạt động trợ giúp pháp lý.
Việc trở thành thành viên chính thức của Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc năm 2013 đặt ra thách thức cho vấn đề bảo vệ nhân quyền tại Việt Nam. Bên cạnh đó, mô hình triển khai trợ giúp pháp lý của giai đoạn trước đó còn tồn tại nhiều bất cập, khuyết điểm, không thể bảo đảm thực hiện đầy đủ chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực này, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý của người dân. Vì vậy thực tiễn đòi hỏi cần có biện pháp nhằm đổi mới công tác TGPL theo hướng nâng cao năng lực, kiện toàn tổ chức, bộ máy của cơ quan quản lý về TGPL; tăng cường quản lý nhà nước trong điều phối các nguồn lực, giám sát, kiểm soát chất lượng TGPL; hỗ trợ kinh phí cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động TGPL; bảo đảm hoạt động TGPL chất lượng, hiệu quả. Cụ thể cần thực hiện các nội dung:
Một là, Nhà nước tập trung rà soát, điều chỉnh, xây dựng hệ thống pháp luật TGPL đầy đủ, phù hợp với tình hình thực tiễn của xã hội và dự liệu những quan hệ pháp luật mới có thể phát sinh để công tác TGPL có thể được thực hiện thuận lợi, ổn định. Các chính sách về tổ chức thực hiện pháp luật TGPL cần được xây dựng có nội dung trọng tâm, trọng điểm, đảm bảo hài hòa trong thực hiện pháp luật về TGPL ở các vùng, miền, đối với các lĩnh vực pháp luật, các hình thức TGPL và các đối tượng hưởng TGPL.
Hai là, kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý, thực hiện TGPL đồng thời hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên, cộng tác viên TGPL; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu. Đổi mới cơ chế quản lý nhà nước về TGPL tại cơ sở ứng với sự phát triển của mạng | lưới tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, đặc biệt mở rộng thêm nhiều chi nhánh TGPL và tổ chức TGPL xã hội tại những khu vực xa trung tâm, nơi có hệ thống giao thông đi lại khó khăn.
Ba là, tiếp tục triển khai thực hiện giảm biên chế sự nghiệp của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước, chuyển đổi mô hình cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý sang tổ chức hành nghề luật sư, luật sư, cộng tác viên TGPL thực hiện TGPL dưới sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước.
Bốn là, sắp xếp số biên chế dôi dư của Trung tâm TGPL tăng cường cho các đơn vị sự nghiệp, đơn vị hành chính của Sở Tư pháp, tổ chức pháp chế ở các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Tư pháp cấp huyện.
Năm là, Nhà nước cần có chính sách phù hợp, đảm bảo nguồn lực về kinh tế, đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, phương tiện đi lại cho Trung tâm TGPL tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ, đảm bảo nguồn kinh phí cho các hoạt động nghiệp vụ TGPL. Cần có chính sách đảm bảo thu nhập ổn định cho đội ngũ trợ giúp viên pháp lý từ nguồn ngân sách trung ương, địa phương và từ các nguồn kinh phí xã hội khác, có chính sách khen thưởng, đãi ngộ dựa trên thành quả thực hiện TGPL đối với mỗi cá nhân, đơn vị. Tạo động lực thu hút đội ngũ thực hiện TGPL chất lượng, tâm huyết, có trách nhiệm với công việc, đáp ứng nhu cầu được TGPL trên mọi lĩnh vực của người dân.
Sáu là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cấp phần mềm trong hoạt động quản lý hệ thống TGPL chung trên cả nước và từng địa phương; chú trọng đầu tư xây dựng khoa học, linh hoạt, đầy đủ, nhanh chóng và chính xác hệ cơ sở dữ liệu về các vụ việc TGPL, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ quản lý, thống kê, nghiên cứu, làm cơ sở tham khảo và tìm hiểu thông tin công khai, minh bạch cho người dân.
Bảy là, Nhà nước cần có chính sách phù hợp nhằm thu hút sự quan tâm, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, nguồn lực xã hội tham gia vào công tác TGPL. Động viên, khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân thuộc Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam, Hội Luật gia, Đoàn luật sư, Hội cựu chiến binh, Hội liên hiệp phụ nữ, Đoàn thanh niên,…bằng những hình thức phù hợp tham gia vào hoạt động TGPL. Thực hiện tuyên truyền sâu rộng trong đoàn viên, hội viên, quân chứng nhân dân về tổ chức và hoạt động TGPL, quyền và nghĩa vụ của các đối tượng được hưởng TGPL.
Tám là, tăng cường các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát chất lượng hoạt động TGPL để kịp thời phát hiện sai sót, kịp thời xử lí các hành vi vi phạm pháp luật, giải quyết nhanh chóng khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân.
3. Bồi dưỡng, nâng cao năng lực, trình độ của người thực hiện trợ giúp pháp lý:
Một là, tổ chức thường xuyên các buổi tập huấn, bồi dưỡng, nâng cao năng lực thực hiện TGPL cho đội ngũ làm công tác TGPL tại cơ sở, đặc biệt chú trọng bồi dưỡng, tập huấn chuyên sâu các kỹ năng tham gia tố tụng, đảm bảo mỗi lĩnh vực có ít nhất một trợ giúp pháp lý viên chuyên trách; kỹ năng năng
Hai là, mở rộng mạng lưới cộng tác viên theo hướng nâng cao chất lượng, trong đó chú trọng phát triển cộng tác viên TGPL là nữ giới, người dân tộc thiểu số hoặc biết tiếng dân tộc, người có uy tín trong cộng đồng, cộng tác viên trợ giúp pháp lý là người có trình độ, kinh nghiệm, kiến thức pháp luật đang hoặc đã công tác tại các cơ quan, đơn vị.
Ba là, việc đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ được thực hiện đồng bộ, kết hợp với bồi dưỡng các kiến thức về ứng dụng tin học, ngoại ngữ, văn hóa – xã hội, kỹ năng năng làm việc với mỗi nhóm đối tượng đặc thù được hưởng TGPL. Khuyến khích bản thân người thực hiện TGPL chủ động học tập, nghiên cứu, trau dồi nghiệp vụ, tu dưỡng đạo đức nghề nghiệp, củng cố nâng cao năng lực chuyên môn, bản lĩnh chính trị.
Bốn là, Sở Tư pháp khảo sát, căn cứ số lượng cán bộ và vị trí việc làm tại Trung tâm trợ giúp pháp lý để xây dựng nội dung, hình thức và phương pháp tập huấn, bồi dưỡng phù hợp với đặc điểm tình hình của mỗi địa phương. Có chính sách thu hút nguồn nhân lực có trình độ cử nhân luật trở lên để củng cố đội ngũ thực hiện TGPL; cử trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên pháp lý, luật sư trao đổi, chia sẻ về kinh nghiệm của mình trong quá trình thực hiện TGPL trên thực tế. Làm tốt công tác kiểm tra, đánh giá nội dung chương trình, chất lượng của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng.
4. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan tổ chức có liên quan về hoạt động trợ giúp pháp lý cho người dân tộc thiểu số:
Một là, tiếp tục triển khai có hiệu quả Chương trình phối hợp liên ngành trong hoạt động tố tụng có tại nội dung Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT/BTP BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC ngày 29/06/2018. Theo đó Công an tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh,
Hai là, tăng cường sự phối hợp giữa Cục trợ giúp pháp lý với các trung tâm trợ giúp pháp lý thuộc hệ thống Bộ Tư pháp; tăng cường mối quan hệ giữa Bộ Tư pháp với các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp trong hoạt động TGPL nhằm phát huy sức mạnh toàn xã hội tham gia trong công tác TGPL, đồng thời phát triển mạng lưới cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý khác ngoài nhà nước, tạo thuận lợi cho các đối tượng được hưởng TGPL có cơ hội lựa chọn dịch vụ.
Ba là, tăng cường sự tham gia của Liên đoàn luật sư, Đoàn Luật sư, Hội luật gia, … phối hợp cùng Trung tâm TGPL nhà nước trong thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý dưới sự quản lý, giám sát, kiểm tra, đánh giá chất lượng giải quyết các vụ việc TGPL của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các cơ quan, tổ chức chính trị – xã hội, xã hội – nghề nghiệp tạo điều kiện, khuyến khích nhân lực của đơn vị mình tham gia vào hoạt động TGPL.
5. Tăng cường công tác xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý:
Xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý là nhu cầu thiết yếu trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Việc này không chỉ giúp hạn chế tăng biên chế, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước, bên cạnh đó còn huy động được nguồn lực toàn xã hội vào thực hiện mục tiêu của công tác trợ giúp pháp lý. Theo đó, Nhà nước cần lựa chọn, áp dụng mô hình nhà nước và xã hội cùng thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý; tạo môi trường pháp lý thông thoáng để huy động các tổ chức hành nghề luật sư, trung tâm tư pháp pháp luật tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý, thu hút mọi nguồn lực hỗ trợ hoạt động này. Xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý có thể thực hiện theo những nội dung:
Một là, đẩy mạnh xã hội hóa tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý. Huy động, khuyến khích sự tham gia của các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp như Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Luật gia, … Hướng tới sự tham gia của các tổ chức hành nghề luật sư, luật sư vào hoạt động trợ giúp pháp lý với tỉ lệ từ 50-60% số lượng vụ việc cần trợ giúp pháp lý.
Hai là, xã hội hóa người thực hiện trợ giúp pháp lý, phát triển đội ngũ luật sư, người tham gia công tác pháp luật đã nghỉ hưu và cộng tác viên trợ giúp pháp lý.
Ba là, nhằm khắc phục tình trạng thiếu hụt kinh phí, giảm thiểu gánh nặng cho nguồn ngân sách nhà nước, cần phải xã hội hóa kinh phí hoạt động trợ giúp pháp lý theo hướng hỗ trợ, khuyến khích, ghi nhận sự tham gia, đóng góp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân cho hoạt động trợ giúp pháp lý. Kinh phí hỗ trợ từ những chủ thể này sẽ được tiếp nhận, thực hiện theo quy định của pháp luật.
Bốn là, Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh cần thường xuyên cập nhật, bổ sung tài liệu, các văn bản pháp luật có liên quan đến TGPL, cập nhật danh sách và thông tin liên lạc của trợ giúp viên pháp lý, luật sư, cộng tác viên pháp lý tại các Trung tâm trợ giúp pháp lý trên địa bàn tại cổng thông tin điện tử, trên bảng
Năm là, Sở Tư pháp, Trung tâm trợ giúp pháp lý và các tổ chức, đơn vị tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá ưu điểm, hạn còn tồn tại trong hoạt động phối hợp thực hiện TGPL, từ đó làm cơ sở nâng cao hơn nữa chất lượng của hoạt động này.
6. Đẩy mạnh công tác truyền thông về thực hiện pháp luật trợ giúp pháp lý:
Một là, tăng cường triển khai phần mềm, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động trợ giúp pháp lý, sử dụng cơ sở dữ liệu để quản lý, đánh giá chất lượng các vụ việc trợ giúp pháp lý (theo dõi tiến độ giải quyết các vụ việc TGPL, các lĩnh vực thường xuyên cần TGPL, số lượng người truy cập tìm hiểu thông tin về TGPL, đối tượng thường xuyên tìm hiểu về TGPL,…). Tiếp tục ra soát, đề xuất cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý.
Hai là, kết hợp tuyên truyền về thực hiện TGPL qua các phương tiện thông tin đại chúng, báo đài, truyền hình,…; lồng ghép nội dung về TGPL trong các buổi sinh hoạt cộng đồng, phổ biến pháp luật lưu động.