Một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng những quy phạm của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) về các loại người đồng phạm.
Mục lục bài viết
- 1 1. Tăng cường giải thích pháp luật, hướng dẫn áp dụng pháp luật về các loại người đồng phạm:
- 2 2. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ý thức pháp luật và trách nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm trong giải quyết các vụ án có đồng phạm:
- 3 3. Tăng cường công tác giám đốc kiểm tra, tổng kết thực tiễn xét xử về các vụ án hình sự có đồng phạm
1. Tăng cường giải thích pháp luật, hướng dẫn áp dụng pháp luật về các loại người đồng phạm:
Đây là hoạt động giải thích, phổ biến rộng rãi các quy định của pháp luật hình sự về đồng phạm và các loại người đồng phạm đến toàn thể mọi người, mọi thành phần, mọi lứa tuổi trong xã hội để họ biết, tuân thủ và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Để làm tốt vấn đề này, cần tăng cường các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật như: Tuyên truyền miệng; phát hành tài liệu, sách, báo dưới dạng hỏi đáp, tình huống pháp luật về vấn đề đồng phạm, các loại người đồng phạm, trách nhiệm hình sự của các loại người đồng phạm,…; đưa vấn đề các loại người đồng phạm vào giáo trình Giáo dục công dân; đưa các vụ án điển hình về đồng phạm tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội;
Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án cần kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm giúp cho những người bị buộc tội trong vụ án hình sự có đồng phạm hiểu rõ vai trò của họ trong vụ án, lý do, căn cứ áp dụng mức hình phạt đó đối với họ, để từ đó họ tự nguyện chấp hành nghiêm túc các quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự và lấy đó làm bài học kinh nghiệm.
2. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ý thức pháp luật và trách nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm trong giải quyết các vụ án có đồng phạm:
Tại
Cơ quan điều tra là cơ quan đầu tiên tiếp cận những thông tin về tội phạm, thực hiện những biện pháp theo quy định của pháp luật để thu thập chứng cứ chứng minh việc có hay không tội phạm xảy ra, ai là người thực hiện tội phạm và những tình tiết khác của vụ án.
Điều tra viên là người tiến hành tố tụng trong cơ quan điều tra được cơ quan có thẩm quyền bổ nhiệm và được thủ trưởng cơ quan điều tra phân công thụ lý vụ án, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ điều tra, thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội theo quy định của pháp luật.
Do đó, việc thu thập chứng cứ, đường lối xử lý vụ án của Điều tra viên ảnh hưởng rất lớn đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án, xác định tội phạm và người phạm tội.
“Kiểm sát viên là người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát, được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật, thực hiện chức năng công tố và chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự”.
Kiểm sát viên tiến hành kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra, kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án của cơ quan điều tra; đề ra yêu cầu điều tra, tiến hành lấy lời khai của bị can, những người tham gia tố tụng trong vụ án; tham gia phiên toà, thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Toà án. Để việc giải quyết vụ án đúng pháp luật, Kiểm sát viên phải là người có năng lực chuyên môn, nắm vững tình tiết của vụ án.
Thẩm phán là người trực tiếp thực hiện chức năng xét xử của Toà án. Do đó, để vụ án được giải quyết đúng đắn, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm thì đòi hỏi họ phải có sự nghiên cứu hồ sơ kỹ lưỡng, có năng lực, trình độ chuyên môn. Không những vậy, họ phải có ý thức trách nhiệm nghề nghiệp, đó là sự vô tư, khách quan, công bằng trong hoạt động xét xử.
Hội thẩm là người được bầu bởi cơ quan quyền lực (Hội thẩm nhân dân) hoặc được bổ nhiệm (Hội thẩm quân nhân), là đại diện cho nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử của Toà án và ngang quyền với Thẩm phán. Khi được phân công xét xử vụ án, họ độc lập và ngang quyền với Thẩm phán. Khác với Thẩm phán, họ không được đào tạo nghiệp vụ xét xử ngay từ đầu. Do đó, việc đào tạo chuyên môn nghiệp vụ xét xử cho họ là cần thiết.
Theo tác giả, cần thực hiện những giải pháp sau đây để góp phần nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ý thức pháp luật và trách nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm trong giải quyết các vụ án có đồng phạm:
Một là, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong việc giải quyết các vụ án có đồng phạm.
Đối với Hội thẩm, Toà án cần có những giải pháp thiết thực hơn trong việc bồi dưỡng nghiệp vụ và công tác rút kinh nghiệm giải quyết các vụ án hình sự có đồng phạm bị huỷ, sửa do lỗi chủ quan để họ tham gia có hiệu quả hơn vào công tác xét xử.
Hiện nay, Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Toà án đã có nhiều hình thức, nhiều phương pháp mới trong đào tào, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ đối với cán bộ của mình. Tuy nhiên, các cơ quan cần tổng hợp các vướng mắc của thực tiễn trong việc giải quyết các vụ án hình sự có đồng phạm, từ đó có những chuyên đề đào tạo thiết thực, hỗ trợ được cho công tác chuyên môn của đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm.
Hai là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ đối với cấp dưới về các vụ án có đồng phạm. Quá trình thanh tra, kiểm tra nghiệp vụ đối với cấp dưới không những góp phần phát hiện vi phạm, những sai lầm trong việc áp dụng pháp luật trong các vụ án hình sự có đồng phạm của cấp dưới mà còn kịp thời có những giải đáp, hướng dẫn nghiệp vụ đối với những vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ án. Đề từ đó, có sự thống nhất và đồng bộ trong việc giải quyết các vụ án có đồng phạm.
Cuối cùng, ba là, tăng cường điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, có chính sách đãi ngộ thích đáng cho đội ngũ cán bộ Toà án, đặc biệt là Thẩm phán, để họ có thêm động lực cống hiến, tránh được những cám dỗ vật chất tầm thường.
Thẩm phán và đội ngũ cán bộ, công chức Toà án khác phải thường xuyên tiếp xúc nhiều với tội phạm, những mặt trái của xã hội, tiềm ẩn rủi ro cao, nhiều nguy hiểm. Nhiều trường hợp, Thẩm phán bị các đương sự tấn công, chống đối, cản trở việc thực thi nhiệm vụ, có trường hợp còn bị đương sự dùng axít tấn công. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có cơ chế, biện pháp đảm bảo an toàn cho đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp, nhất là đội ngũ Thẩm phán. Không những vậy, Quyết định số 120/QĐ-TANDTC ngày 19/6/2017 của Chánh án
3. Tăng cường công tác giám đốc kiểm tra, tổng kết thực tiễn xét xử về các vụ án hình sự có đồng phạm
Tại
Hiện nay, TAND tối cao đã và đang thực hiện nhiệm vụ này của mình với nhiều hình thức như ban hành các án lệ; tổ chức hội nghị tập huấn trực tuyến hàng tháng để tiếp nhận các vướng mắc trong thực tiễn giải quyết các vụ án và tiến hành giải đáp trực tiếp hoặc ban hành văn bản giải đáp ngay sau đó; xây dựng cổng thông tin điện tử công bố bản án, quyết định của Toà án và đang từng bước xây dựng Toà án điện tử.
Từ những vướng mắc về đồng phạm và các loại người đồng phạm trong thực tiễn, TAND tối cao cần nghiên cứu để xây dựng, ban hành các án lệ liên quan đến việc giải quyết các vụ án có đồng phạm nói chung và về các loại người đồng phạm nói riêng. Để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả của án lệ đó, TAND tối cao cần tăng cường công tác giám đốc kiểm tra thông qua hoạt động xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các vụ án hình sự có đồng phạm, để kịp thời phát hiện những sai sót, để chấn chỉnh, rút kinh nghiệm chung trong các cấp Toà án. Thông qua đó, TAND tối cao có thể tổng kết thực tiễn một cách đầy đủ, chính xác, thuận lợi trong việc đề xuất và xây dựng án lệ.
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng những quy phạm về các loại người đồng phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy phạm này, tác giả đi đến những kết luận dưới đây:
Một là, thực tiễn áp dụng những quy phạm về các loại người đồng phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam TAND đã giải quyết, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế tối đa việc làm oan người không có tội và bỏ lọt tội phạm, người phạm tội. Khi quyết định hình phạt, các Toà án đều căn cứ vào quy định của pháp luật, dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên toà, xem xét toàn diện các chứng cứ, tài liệu của vụ án. Hình phạt áp dụng đối với mỗi người đồng phạm cơ bản đảm bảo tính nghiêm minh, không những có tác dụng cải tạo, giáo dục người phạm tội mà còn đảm bảo tính răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.
Hai là, tuy vẫn còn một số tồn tại, hạn chế trong việc áp dụng những quy phạm về các loại người đồng phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành, cụ thể như: Vẫn còn tình trạng, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án do nhận thức không chính xác bản chất pháp lý của người giúp sức; không áp dụng mọi biện pháp nghiệp vụ theo quy định của pháp luật để điều tra xác minh triệt để, để truy tố xét xử cùng một vụ án, dẫn đến việc bỏ lọt người phạm tội; không xác định đúng các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của đồng phạm dẫn đến việc xác định những người không phải là đồng phạm là người đồng phạm trong vụ án; và chưa thực hiện đúng nguyên tắc cá thể hoá TNHS trong một số vụ án có đồng phạm.