Giá trị lịch sử và chất chính luận trong Tuyên ngôn độc lập

Bản Tuyên Ngôn độc lập của Hồ Chí Minh đã đánh dấu cột mốc vĩ đại trong lịch sử của dân tộc Việt Nam, hãy cùng tìm hiểu giá trị của bản tuyên ngôn độc lập thông qua bài viết dưới đây 

1. Dàn ý phân tích giá trị và chất chính luận trong Tuyên ngôn độc lập chi tiết nhất: 

1.1. Mở bài:

Giới thiệu tóm tắt về Chủ tịch Hồ Chí Minh và tác phẩm Tuyên ngôn độc lập: Là áng văn bất hủ, có giá trị lịch sử to lớn, thể hiện bản lĩnh chính trị rõ ràng và có sức thuyết phục.

1.2. Thân bài:

* Về tính lịch sử

Bản Tuyên ngôn nêu rõ:

+ Âm mưu thâm độc của bọn thực dân: “lợi dụng ngọn cờ tự do… ức hiếp đồng bào ta” => Chúng đã phản bội lại lời thiêng liêng của cha ông để lại.

+ Tội ác thể hiện ở những hành động man rợ của chúng: Nạn đói hoành hành, sưu cao thuế nặng, các quyền tự do dân chủ bị đàn áp, nhiều người yêu nước bị chúng tàn sát bằng gươm lạnh lùng, chính sách ngu dân tàn bạo, bạo lực, âm mưu đồng hóa dân tộc...

+ Hành động nhục nhã, đê hèn của thực dân Pháp: Bán rẻ nước ta cho Nhật, bắt nhân dân chịu 2 tầng áp bức, trực tiếp giết tù binh, khủng bố Việt Minh.

=> Tội ác man rợ, đê hèn của Pháp.

Tuyên bố nêu rõ:

+ Tinh thần đấu tranh anh dũng của nhân dân ta từ bao đời nay, một lòng đoàn kết phá xiềng xích thực dân.

+ Khẳng định xóa bỏ chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm trên đất nước, xác lập kỷ nguyên mới cho dân tộc.

+ Bỏ mọi đặc quyền, đặc lợi và mọi ràng buộc với Pháp trên đất nước ta.

* Bản chất chính trị

- Bài viết có tính chính luận mẫu mực, mở đầu tác phẩm Bác trích dẫn hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ để chứng tỏ sự tàn bạo của thực dân Pháp là trái với đạo lý của cha ông ta.

- Nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông” được tác giả vận dụng hợp lý nhằm khẳng định nền độc lập của dân tộc ta là một tất yếu khách quan và không ai có quyền xâm phạm.

1.3. Kết bài:

Khẳng định lại giá trị lịch sử và phẩm chất chính trị trong Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh.

2. Bài phân tích giá trị lịch sử và chính luận trong Tuyên Ngôn độc lập hay nhất:

Trong chiều dài bốn nghìn năm lịch sử của dân tộc có biết bao mốc son đáng ghi nhớ gắn liền với cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Một trong những mốc son vĩ đại đó là sự thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam. Để tuyên bố với đồng bào cả nước và thế giới rằng nước Việt Nam nay đã độc lập, Hồ Chí Minh đã viết bản Tuyên ngôn Độc lập. Một tác phẩm đặc sắc vừa có tính văn học vừa có tính chất chính luận, mang tính lịch sử dân tộc sắc sảo.

Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình - Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới Độc lập, Tự do. Hà Nội tưng bừng sắc đỏ, ngập tràn cờ hoa. "Việt Nam độc lập muôn năm!" - Hàng triệu người, hàng triệu tiếng nói, hòa làm một, vang dậy sông núi, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa đọc xong bản tuyên ngôn. Đọc được nửa chừng bản Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chủ tịch dừng lại và đột ngột hỏi: “Tôi nói, đồng chí có nghe rõ không?”. Ngay lập tức một tiếng "có" từ hàng triệu người trả lời, vang dội như sấm. "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập và thực tế đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và sức lực, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập đó."

Có thể nói: Bản Tuyên ngôn Độc lập đã thể hiện một cách hùng hồn khát vọng của ý chí và sức mạnh Việt Nam... Nó có giá trị lịch sử to lớn. Nó phản ánh tập trung nhất, tiêu biểu nhất phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh. Nếu Nam quốc sơn hà mở đầu bằng lời tuyên bố hùng hồn: “Nam vương sơn hà thiên hạ” thì Bình Ngô Đại Cáo lại khẳng định một chân lý lịch sử: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân - Quân điếu phạt cốt lo trừ bạo ”. Tuyên ngôn Độc lập mở đầu bằng việc trích dẫn hai câu nổi tiếng trong hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng trên thế giới. Câu đầu tiên trích trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ: quyền bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Câu thứ hai được trích từ Tuyên ngôn về quyền của con người và công dân của Cách mạng Pháp năm 1791: “Con người sinh ra tự do và bình đẳng, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về các quyền.” Hồ Chí Minh không chỉ trích dẫn mà còn bình luận khái quát: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền hưởng tự do”, và đi đến khẳng định: “Đó là những chân lý điều đó không ai có thể phủ nhận". Qua đó ta thấy tư tưởng Hồ Chí Minh cao cả và sâu sắc. Từ việc khẳng định và phát huy lý tưởng của thời đại tự do, bình đẳng, bác ái và nhân quyền là yêu cầu, nguyện vọng cháy bỏng, thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Giọng điệu từ trang nghiêm, trang trọng chuyển sang hùng hồn, phẫn nộ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch trần và lên án tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta trong hơn một thế kỷ qua. Bộ mặt của chúng vô cùng xảo quyệt và man rợ, “lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái để cướp nước, đàn áp đồng bào”. Tác giả đã điểm lại một cách khái quát, điển hình tội ác của thực dân Pháp trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và tội ác chất như núi. Đó là năm tội ác ghê tởm về mặt chính trị và bốn tội ác ghê tởm nhất về kinh tế.

Năm tội chính trị lớn là tước đoạt các quyền tự do dân chủ; quy luật man rợ chia để trị; đàn áp và khủng bố; thi hành chính sách ngu dân; đầu độc bằng rượu và thuốc phiện "để làm suy yếu nòi giống của dân tộc". Trong Bình Ngô Đại Cáo Nguyễn Trãi đã nói về tội ác của giặc Minh: “Tiêu diệt dân đen trên ngọn lửa hung tàn - Vùi con đỏ đen trong hố sâu tai họa”. Hơn 500 năm sau, trong Tuyên ngôn độc lập, anh hùng giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh đã viết: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng trực tiếp giết những người yêu nước, những người yêu nước. Chúng tắm các cuộc nổi dậy của chúng ta trong vũng máu. "Đó là bằng chứng không thể chối cãi. Câu văn ngắn gọn, hùng hồn. Từ họ được lặp lại một cách ám ảnh. So sánh cụ thể mang tính mỉa mai (đặt nhà tù nhiều hơn trường học) Cách dùng vị ngữ, trạng ngữ chính xác (giết người bằng tay), cách dùng hình ảnh (cuộc tắm máu ) - tất cả tạo nên phong cách chính luận Hồ Chí Minh: ngắn gọn, chặt chẽ, lập luận chặt chẽ, lời lẽ chặt chẽ, có sức thuyết phục.

Bốn tội ác về kinh tế của thực dân Pháp là bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy, làm cho “dân ta bần cùng, nước ta xơ xác”; cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu; độc quyền in tiền giấy, xuất nhập khẩu. Lên án chính sách thuế khóa vô nhân đạo của chúng, tác giả phẫn nộ viết: “Chúng đánh hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho nhân dân ta, nhất là nông dân và thương gia bị bần cùng hóa”. Hàng trăm thứ thuế vô lí do thực dân Pháp áp đặt, nhân dân ta đã cam chịu và căm phẫn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt hèn hạ, xảo trá của thực dân Pháp. Mùa thu năm 1940, thực dân Pháp “quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta đón Nhật”. Pháp, Nhật câu kết, bóc lột dã man nhân dân ta, gây ra thảm họa Ất Dậu 1945: “Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích Pháp, Nhật, từ đó dân ta sống lầm than, nghèo khổ, từ cuối năm ngoái đến đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta chết đói!”. 3/3/1945 Nhật đảo chính Pháp, quân Pháp bỏ chạy hoặc đầu hàng, tác giả lên án một cách mỉa mai: “Chúng không “bảo vệ” được ta, ngược lại trong 5 năm chúng đã hai lần bán nước ta cho Nhật!”. Dã man hơn, trước khi tháo chạy, “chúng còn giết dã man đại đa số tù chính trị ở Yên Bái, Cao Bằng”.

Bài viết ngắn gọn, súc tích, có sức thuyết phục. Chỉ một câu 9 chữ mà làm nổi bật một tình thế chính trị: “Pháp tháo chạy, Nhật đầu hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Cách dùng từ của Bác chính xác và gợi cảm. Văn chính luận, bản chất của nó là luận cứ và luận chứng. Tuy nhiên, cũng có khi là những hình ảnh gây xúc động mạnh: “Chúng tắm các cuộc nổi dậy của chúng ta trong bể máu”. Văn phong của Bác rất tinh tế, linh hoạt trong việc sử dụng điệp ngữ, kết cấu cân đối, trùng điệp, tăng cấp tạo nên những câu văn hay, ý nghĩa sâu sắc, ấn tượng: Một dân tộc anh hùng chống Pháp hơn 80 năm nô lệ, một những người đã dũng cảm đứng về phía Đồng minh chống lại chủ nghĩa phát xít trong nhiều năm, rằng những người đó phải được tự do!Có thể khẳng định, Tuyên ngôn Độc lập vừa có giá trị lịch sử to lớn, vừa có những nét tiêu biểu cho bản luận chính trị của Hồ Chí Minh. Nó vừa kế thừa, vừa phát huy giá trị của lịch sử, mang tính thời đại sâu sắc. Bản Tuyên ngôn Độc lập sẽ còn mãi trong lịch sử dân tộc như một bản tuyên ngôn về sự ra đời của dân tộc Việt Nam, đồng thời làm phong phú thêm kho tàng văn học Việt Nam.

3. Bài phân tích giá trị lịch sử và chính luận trong Tuyên Ngôn độc lập ấn tượng nhất:

Ngày 19-8-1945, chính quyền ở thủ đô Hà Nội về tay nhân dân ta. Ngày 23-8, tại Huế, trước 15 vạn đồng bào ta, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị. Ngày 25-7, hơn 80.000 nhân dân Sài Gòn và Chợ Lớn nổi dậy giành chính quyền. Trong vòng chưa đầy mười ngày, cuộc Tổng khởi nghĩa và Cách mạng tháng Tám đã thành công vang dội. Chế độ thực dân 80 năm cùng với chế độ phong kiến ngàn năm đã sụp đổ.

Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới. thô mới. độc lập, tự do mới. Hà Nội tưng bừng sắc đỏ, ngập tràn cờ hoa.

Đọc đến nửa bản Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chủ tịch dừng lại, đột ngột hỏi: “Tôi nói được rồi, đồng chí có nghe không?”. Ngay lập tức một tiếng "có" của cả triệu người trả lời, vang dội như sấm. “Nước Việt Nam độc lập muôn năm” - Một triệu đồng bào, một triệu tiếng nói, vang vọng sông núi, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa dứt bản Tuyên ngôn: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập và quyền đó đã trở thành một nước nhà độc lập, toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và sức lực, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.

Có thể nói, Tuyên ngôn độc lập đã thể hiện một cách hùng hồn khát vọng, ý chí và sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Nó có giá trị lịch sử to lớn. Nó phản ánh một cách trung thực nhất, tiêu biểu nhất phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh. Nếu Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt mở đầu bằng câu hùng hồn: “Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế” thì Bình Ngô Đại Cáo khẳng định một chân lý lịch sử: Nhân nghĩa cốt cốt ở yên dân – Câu đầu trích trong Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ 1776: "Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã ban cho họ một số quyền bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc." Câu thứ hai trích trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791: “Tất cả mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về các quyền”. Bác không chỉ trích dẫn mà còn bình luận một cách chung chung: “Các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”, đồng thời khẳng định: “Đó là những lý do không ai có thể phủ nhận được. . .” Qua đó, ta thấy tư tưởng cao cả, sâu sắc của Hồ Chí Minh chính là từ sự khẳng định và đề cao một lý tưởng của thời đại về tự do, bình đẳng, bác ái và nhân quyền một yêu cầu, một nguyện vọng cháy bỏng và vô cùng thiêng liêng của dân tộc Việt Nam: độc lập dân tộc, và “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” là mục tiêu đấu tranh của nhân dân ta, của cách mạng Việt Nam. Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngoài ra, việc trích dẫn còn tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của dư luận tiến bộ trên thế giới. Như vậy, nói đến giá trị lịch sử của Tuyên ngôn Độc lập, trước hết phải nói đến ý đồ chiến lược, chiến thuật của việc trích dẫn hai câu nổi tiếng trong hai bản tuyên ngôn Mỹ và Pháp.

Giọng điệu từ trang nghiêm, trang trọng chuyển sang hùng hồn, phẫn nộ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch trần và lên án tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta trong hơn một thế kỷ qua. Bộ mặt của chúng cực kỳ xảo quyệt và man rợ "'lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái để cướp nước, đàn áp đồng bào''. tội ác. Năm tội chính trị lớn là tước quyền tự do dân chủ, pháp luật dã man, chia để trị, đàn áp bắt bớ”; thi hành chính sách ngu dân; dùng rượu thuốc phiện đầu độc để làm suy nhược nòi giống. Trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi đã nói về tội ác của bè lũ “Giặc Minh”: “Đốt dân đen trên ngọn lửa hung tàn – Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ” Hơn năm trăm năm sau, trong bản Tuyên ngôn Độc lập sáng lập, anh hùng giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh đã viết "Họ thiết lập nhiều nhà tù hơn trường học. Chúng trực tiếp tàn sát những người yêu nước, yêu nòi giống của chúng ta. Chúng tắm các cuộc nổi dậy của chúng ta trong vũng máu. Đó là những bằng chứng không thể chối cãi. Câu văn ngắn gọn, hùng hồn, hùng hồn. Từ “họ” được lặp lại nhiều lần, đầy sức ám ảnh. So sánh cụ thể, mỉa mai “nhà tù hơn trường học” Việc sử dụng vị ngữ, trạng ngữ chính xác “giết thẳng tay”, sử dụng hình ảnh “một cuộc tắm máu” - tất cả tạo nên phong cách chính luận của Hồ Chí Minh: ngắn gọn, chặt chẽ, mạnh mẽ, hùng biện và thuyết phục.

Phần tiếp theo là bản tuyên ngôn chính nghĩa sáng ngời, thể hiện quyết tâm sắt đá không thế lực thù địch nào có thể lay chuyển được. Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng trên lập trường dân tộc chủ nghĩa, kêu gọi các nước Đồng minh “thừa nhận quyền độc lập của nhân dân Việt Nam”. Đồng thời mạnh miệng tuyên bố: “đoạn tuyệt hoàn toàn với Pháp, xóa bỏ mọi hiệp ước mà Pháp ký kết về Việt Nam, xóa bỏ mọi đặc quyền của Pháp ở Việt Nam”. Tác giả tự hào nêu cao truyền thống anh hùng bất khuất chống thực dân, phát xít của dân tộc ta và khẳng định: "Dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập".

Kết luận Tuyên ngôn độc lập là bản tuyên ngôn có ý nghĩa lịch sử, là lời thề thiêng liêng, thể hiện sâu sắc khát vọng độc lập, tự do của nhân dân ta, ý chí và sức mạnh của nước Việt Nam.

Tuyên ngôn Độc lập khẳng định hùng hồn quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam và lịch sử đấu tranh kiên cường của một dân tộc anh hùng.

    5 / 5 ( 1 bình chọn )