Bất cứ ai khi tham gia nghiên cứu khoa học đều nghe đến cụm giả thiết nghiên cứu. Vậy giả thiết nghiên cứu là gì? Bài viết dưới đây sẽ cung cấp một số thông tin về Giả thiết nghiên cứu và cho ví dụ về một vài giả thiết nghiên cứu.
Mục lục bài viết
1. Giả thuyết nghiên cứu là gì?
Trước khi định nghĩa được giả thiết nghiên cứu thì chúng ta cần phải hiểu định nghĩa của giả thuyết là gì?
Giả thuyết (Hypothesis) : được giải thích theo từ điển Cambrigde là một ý tưởng hoặc lời giải thích cho một cái gì đó dựa trên các sự kiện đã biết nhưng chưa được chứng minh. Nói cách khác, đó là một tuyên bố được đưa ra để giải thích về lý do hoặc cách thức hoạt động của một thứ gì đó, dựa trên sự thật (hoặc một số giả định hợp lý), nhưng điều đó vẫn chưa được kiểm tra cụ thể. Ví dụ, giả thuyết đặt ra về việc giấc ngủ ảnh hưởng đến kết quả học tập. Tuyên bố này dự đoán rằng kết quả học tập sẽ bị ảnh hưởng bởi thời lượng và/hoặc chất lượng giấc ngủ mà học sinh ngủ. Để đặt ra một giả thuyết như vậy, người nghiên cứu đã dựa trên những giả định hợp lý, kết hợp với những kiến thức chúng ta hiện biết về giấc ngủ và sức khỏe (từ các tài liệu hiện có). Vì vậy, nói một cách đơn giản, chúng ta có thể gọi đó là một giả thuyết.
Nhưng nếu chỉ nói riêng về giả thuyết thì bản thân nó chưa đủ để đáp ứng với tiêu chí mà một bài nghiên cứu khoa học cần có bởi nó không đủ phức tạp để tạo thành một giả thuyết nghiên cứu (đôi khi còn được gọi là giả thuyết khoa học) và nó cũng có thể không được chấp nhận trong luận văn, luận án hoặc bài nghiên cứu. Để một giả thuyết thành giả thuyết nghiên cứu (hoặc giả thuyết khoa học) chất lượng, thì cần phải có ba thuộc tính – tính cụ thể, tính rõ ràng và khả năng kiểm tra. Kết hợp với định nghĩa về giả thuyết và với những thuộc tính của một giả thuyết nghiên cứu cần có thì có thể định nghĩa giải thuyết nghiên cứu như sau: Giả thuyết nghiên cứu là một tuyên bố về mối quan hệ dự kiến giữa các biến, hoặc giải thích về một sự kiện, rõ ràng, cụ thể và có thể kiểm chứng. Vì vậy, khi bạn viết các giả thuyết cho luận văn hoặc luận án của mình, hãy đảm bảo rằng chúng đáp ứng tất cả các tiêu chí này. Nếu bạn làm như vậy, bạn sẽ không chỉ có những giả thuyết vững chắc mà còn đảm bảo trọng tâm rõ ràng cho toàn bộ dự án nghiên cứu của mình.
2. Các thuộc tính của giả thuyết nghiên cứu:
Giả thuyết nghiên cứu có những thuộc tính cơ bản sau:
2.1. Thuộc tính số 1 về tính cụ thể và rõ ràng:
Một giả thuyết nghiên cứu chất lượng cần phải cực kỳ rõ ràng và rõ ràng bao gồm cả về những gì đang được đánh giá (ai hoặc đối tượng nào có liên quan) và kết quả mong đợi (ví dụ: sự khác biệt giữa các nhóm, mối quan hệ giữa các đối tượng, v.v.).
Ví dụ về tính rõ ràng của giả thuyết nghiên cứu : Trung bình, những sinh viên ngủ ít nhất 8 tiếng mỗi đêm sẽ đạt điểm cao hơn trong các bài kiểm tra tiêu chuẩn so với những sinh viên ngủ ít hơn 8 tiếng mỗi đêm. Theo như những nghiên cứu trên có thể thấy, tuyên bố rất cụ thể vì nó xác định các biến số liên quan (số giờ ngủ và điểm kiểm tra), các chủ thể liên quan (hai nhóm học sinh), cũng như loại mối quan hệ được dự đoán (mối quan hệ tích cực). Không có sự mơ hồ hoặc không chắc chắn về ai hoặc cái gì liên quan đến tuyên bố và kết quả mong đợi là rõ ràng. Trái ngược với giả thuyết ban đầu mà chúng tôi đã xem xét – “Giấc ngủ ảnh hưởng đến kết quả học tập” – và bạn có thể thấy sự khác biệt. “Giấc ngủ” và “kết quả học tập” đều tương đối mơ hồ và không có dấu hiệu nào cho thấy hướng mối quan hệ mong đợi là gì (ngủ nhiều hơn hoặc ngủ ít hơn). Như bạn có thể thấy, tính cụ thể và rõ ràng là chìa khóa.
2.2.Thuộc tính số 2 về khả năng có thể được kiểm chứng (Provability):
Một tuyên bố phải được kiểm chứng rằng chúng có đáp ứng đủ điều kiện để trở thành một giả thuyết nghiên cứu không. Nói cách khác, cần phải có một phương pháp để chứng minh (hoặc bác bỏ) tuyên bố. Nếu lời tuyên bố không thể kiểm chứng được, thì đó không phải là một giả thuyết.
Ví dụ về khả năng có thể được kiểm chứng, lấy lại ví dụ giả thuyết về giấc ngủ mà chúng tôi đã đề cập trước đó để xem xét giả thuyết :
Giả thuyết: Trung bình, những sinh viên ngủ ít nhất 8 tiếng mỗi đêm sẽ đạt điểm cao hơn trong các bài kiểm tra tiêu chuẩn so với những sinh viên ngủ ít hơn 8 tiếng mỗi đêm. Chúng ta có thể xác thực để kiểm tra tuyên bố này bằng cách thực hiện một nghiên cứu định lượng liên quan đến hai nhóm sinh viên, một nhóm ngủ từ 8 tiếng trở lên mỗi đêm trong một khoảng thời gian cố định và nhóm còn lại ngủ ít hơn. Sau đó, chúng tôi có thể so sánh kết quả kiểm tra cho cả hai nhóm để xem liệu có sự khác biệt đáng kể về mặt thống kê hay không. Một lần nữa, nếu bạn so sánh điều này với giả thuyết ban đầu mà chúng tôi đặt ra – “Giấc ngủ ảnh hưởng đến kết quả học tập” – bạn có thể thấy rằng sẽ khá khó để kiểm tra nhận định đó, chủ yếu là vì nó không đủ cụ thể. Ngủ bao nhiêu? Bởi ai? Loại kết quả học tập? Vì vậy, nếu giả thiết người nghiên cứu đưa ra không thể kiểm tra , thì đó không phải là giả thuyết.
Giả thuyết nghiên cứu làm thay đổi hoặc điều chỉnh quá trình nghiên cứu. Từ những kết quả thu thập được từ dữ liệu và phân tích, người nghiên cứu có thể cần điều chỉnh giả thuyết ban đầu hoặc đề xuất những giả thuyết phụ để giải thích các hiện tượng phức tạp hơn.Tựu chung lại, giả thuyết nghiên cứu có vai trò quan trọng đối với quá trình nghiên cứu khoa học. Nó giúp người nghiên cứu định hướng, xác định mục tiêu và tạo ra khung lý thuyết cho quá trình nghiên cứu. Tuy nhiên, giả thuyết cần được kiểm chứng và được điều chỉnh để đạt được sự hiểu biết và kiến thức mới.
3. Các loại giả thiết nghiên cứu:
Giả thuyết nhân quả: Giả thuyết nhân quả được hiểu là trong một vấn đề được nghiên cứu giả thiết được đặt ra thể hiện một mối quan hệ giữa các đối tượng được nghiên cứu. Một giả thuyết thực nghiệm sẽ dự đoán được những thay đổi nào sẽ diễn ra giữa đối tượng phụ thuộc khi đối tượng độc lập bị thao túng. Nó chỉ ra rằng các kết quả nghiên cứu không phải do ngẫu nhiên và chúng có ý nghĩa quan trọng trong việc bổ trợ cho lý thuyết đang được nghiên cứu.
Ví dụ: Nếu một người chơi luyện tập thêm một giờ mỗi ngày, tỷ lệ thành công trong các cú ném của anh ta tăng thêm 10%.
– Giả thuyết không: Giả thuyết không được hiểu rằng không có mối quan hệ nào giữa các đối tượng đang được nghiên cứu . Sẽ không có sự thay đổi cũng như ảnh hưởng của các đối tượng lẫn nhau. Điều này chỉ ra rằng kết quả nghiên cứu là do ngẫu nhiên và không giúp hỗ trợ ý tưởng đang được nghiên cứu.
Ví dụ: Không có mối quan hệ giữa màu tóc của học sinh và kết quả học tập của họ.
– Giả thuyết vô hướng: Kết quả của một giả thuyết không định hướng (hai phía) dự đoán rằng các đối tượng độc lập sẽ có ảnh hưởng đến đối tượng phụ thuộc. Nó chỉ nói rằng sẽ có một sự khác biệt.
Ví dụ: Sẽ có sự khác biệt về số lượng con số mà trẻ em và người lớn nhớ lại chính xác.
– Giả thuyết định hướng: Kết quả của giả thuyết định hướng (một phía) sẽ dự đoán ảnh hưởng của đối tượng độc lập tác động lên biến phụ thuộc. Nó dự đoán sự thay đổi sẽ diễn ra theo hướng nào. (thường là lớn hơn, nhỏ hơn, ít hơn, nhiều hơn).
Ví dụ: Người lớn sẽ nhớ chính xác nhiều từ hơn trẻ em.
4. Xây dựng giả thiết nghiên cứu:
4.1. Tiêu chí xem xét một giả thuyết nghiên cứu:
– Giả thuyết nghiên cứu phải được xây dựng trên cơ sở quan sát khoa học.
– Giả thuyết nghiên cứu không được trái với lý thuyết.
– Giả thuyết nghiên cứu phải có thể kiểm chứng.
4.2. Bản chất logic của giả thuyết nghiên cứu:
– Giả thuyết là một phán đoán;
– Giả thuyết thường đặt ở vị trí luận đề trong cấu trúc logic của chuyên khảo khoa học, đây là điều mà người nghiên cứu phải chứng minh.
4.3. Phương pháp xây dựng giả thuyết nghiên cứu:
Khi tiến hành xây dựng giả thuyết cần đảm bảo các nguyên tắc sau: Nhận dạng chuẩn xác loại hình nghiên cứu; Tìm mối liên hệ giữa giả thuyết với vấn đề khoa học; Phương pháp đưa ra một giả thuyết khoa học.
Phương pháp đưa ra một giả thuyết nghiên cứu: Để đưa ra một giả thuyết nghiên cứu, người nghiên cứu cần phải chú ý quan sát, phải phát hiện được vấn đề, và đặt giả thuyết chính là đi tìm câu trả lời cho câu hỏi đã đặt ra. Quá trình liên kết các vấn đề các số liệu thu thập được từ trong quan sát, thực nghiệm để đưa ra một giả thuyết chính là quá trình suy luận.
4.4. Kiểm chứng một giả thuyết nghiên cứu:
Kiểm chứng giả thuyết được hiểu là việc khẳng định hoặc phủ định giả thuyết và được thực hiện nhờ vào các thao tác logic chứng minh hoặc bác bỏ.
Để khẳng định một giả thuyết nghiên cứu thì thực hiện qua phương pháp chứng minh: Chứng minh một giả thuyết là sự vận dụng các quy tắc logic và các phương pháp thu thập và xử lý thông tin (luận chứng), tìm kiếm cơ sở lý thuyết hoặc thực nghiệm khoa học (luận cứ) để khẳng định tính đúng đắn của giả thuyết.
Nếu người nghiên cứu giả thuyết nghiên cứu muốn phủ định giả thuyết thì có thể thực hiện thông qua phương pháp bác bỏ: Bác bỏ một giả thuyết là sự vận dụng các quy tắc logic và các phương pháp thu thập và xử lý thông tin khoa học (luận chứng), tìm kiếm các cơ sở lý thuyết hoặc thực nghiệm khoa học (luận cứ) để khẳng định tính sai luận của giả thuyết.